Xử lý nợ xấu – Việc khó khi doanh nghiệp mất khả năng trả nợ
Trước diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước có nhiều điểm bất lợi, gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khả năng trả nợ của khách hàng làm gia tăng nợ xấu, gây áp lực trong việc trích lập dự phòng để xử lý nợ xấu cũng như tiến độ xử lý tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Cụ thể, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, kể từ năm 2012 đến nay, các tổ chức tín dụng tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro.
Tính đến cuối tháng 5/2023, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đã xử lý được 1.641,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong đó, ngân hàng tự xử lý ở mức cao 1.223 nghìn tỷ đồng (chiếm 74,5% trong tổng nợ xấu được xử lý), còn lại là bán nợ bao gồm bán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam(VAMC) và tổ chức, cá nhân khác là 418,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,5% trong tổng nợ xấu được xử lý.
Nếu tính riêng trong 5 tháng đầu năm 2023, toàn hệ thống xử lý được 75 nghìn tỷ đồng nợ xấu, tăng 5,8 nghìn tỷ đồng ( tăng 8,4%) so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh việc xử lý nợ xấu nội bảng, thì kết quả xử lý nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 cũng đạt được kết quả tích cực. Lũy kế từ khi Nghị quyết có hiệu lực (ngày 15/8/2017) đến cuối tháng 5, toàn hệ thống đã xử lý được 419,8 nghìn tỷ đồng.
Đến cuối tháng 5, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 3,65% (cao hơn mức 2% cuối năm 2022 và mức 1,69% cuối năm 2020). Tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn của hệ thống các tổ chức tín dụng là 5,46% so với tổng dư nợ (tăng so với mức 4,21% vào cuối năm 2022).
Ngân hàng Nhà nước nhận định trước diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước có nhiều điểm bất lợi, gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ của khách hàng làm gia tăng nợ xấu, gây áp lực trong việc trích lập dự phòng để xử lý nợ xấu cũng như tiến độ xử lý tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Theo đó, công tác xử lý nợ xấu vẫn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, doanh nghiệp đang chịu những tác động bất lợi, tiêu cực từ môi trường bên ngoài, làm suy giảm khả năng trả các khoản nợ quá hạn của các hộ gia đình và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý liên quan đến cơ cấu lại ngân hàng và xử lý nợ xấu chưa được hoàn thiện; thiếu các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tham gia xử lý tài sản bảo đảm và mua bán nợ xấu.
Ngoài ra, thị trường bất động sản gặp nhiều khó khăn, thanh khoản thấp, gây khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản; Thị trường mua, bán nợ vẫn còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt, ý thức trả nợ của một bộ phận khách hàng còn thấp, thiếu chủ động, không hợp tác, chây ỳ, chống đối trong việc trả nợ và bàn giao tài sản bảo đảm khiến quá trình thu hồi, xử lý nợ xấu của ngân hàng kéo dài, kém hiệu quả.
Theo tính toán của Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC) từ 27 ngân hàng niêm yết, tỷ lệ nợ xấu trung bình đã tăng đáng kể trong quý I năm nay lên khoảng 1,9% so với 1,6% trong quý trước, với mức tăng đáng lưu ý khoảng 68% của nợ nhóm 3. Trong quý II, tỷ lệ nợ xấu ngành dù vẫn tiếp diễn đà tăng nhưng tốc độ đã chậm lại, ở mức 2,1%, với mức tăng lớn nhất 25% đến từ nợ nhóm 4.
Tỷ lệ nợ xấu hình thành đã chậm lại, tuy nhiên VDSC cho rằng vẫn có mức độ khác nhau giữa từng ngân hàng cụ thể, đặc biệt là áp lực vẫn còn đáng kể đối với các ngân hàng bị ảnh hưởng bởi biến động trên thị trường bất động sản và những khó khăn từ phân khúc khách hàng cá nhân.
Dự kiến trong giai đoạn cuối năm, áp lực nợ xấu được kỳ vọng giảm bớt một phần nhờ hiệu ứng chính sách. "Việc ban hành Thông tư 02 có hiệu lực từ 24/4 sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng giữ nguyên nhóm nợ, hỗ trợ khả năng làm mềm xu hướng gia tăng của tỷ lệ nợ xấu và phần nào giảm áp lực trích lập chi phí dự phòng trong vài quý tiếp theo", báo cáo VDSC nhận xét./.
Hải Bình (t/h)