Những đặc sản nổi tiếng của Hà Giang
Hà Giang không chỉ có những địa điểm du lịch nổi tiếng, những lễ hội văn hóa độc đáo, mà còn là mảnh đất đặc biệt với những sản vật quý hiếm, khiến con người ta không ngừng tìm tòi và khám phá. Mỗi lần đặt chân đến đây, ta đều cảm nhận được sự kì vĩ của thiên nhiên và sự độc đáo của văn hóa dân tộc.
Hồng không hạt Quản Bạ
Hồng không hạt Quản Bạ là một trong những sản phẩm nổi tiếng của Hà Giang. Loại hồng ngâm này đã được đồng bào các dân tộc thiểu số trồng từ lâu đời và được bảo tồn và phát triển. Với độ cao trung bình trên 1.000m so với mực nước biển, địa hình bằng phẳng và khí hậu mát mẻ, Quản Bạ là nơi lý tưởng để trồng loại hồng này.
Hồng không hạt Quản Bạ có chất lượng tốt, năng suất cao và ổn định. Sau khi thu hoạch, người dân sẽ ngâm quả để loại bỏ vị chát và giữ được vị ngọt đậm đà cùng với độ giòn và bột mịn. Hồng không hạt Quản Bạ đã được xác lập và bảo hộ chỉ dẫn địa lý, đưa Hà Giang trở thành địa phương có nhiều sản phẩm được bảo hộ nhất của Việt Nam.
Cam sành Hà Giang
Hà Giang là tỉnh có diện tích trồng cam sành lớn nhất cả nước, tập trung chủ yếu ở 3 huyện Bắc Quang, Vị Xuyên và Quang Bình. Cam sành Hà Giang có quả to và tròn, vỏ sần sùi, lõi vàng, có hạt, ăn ngọt và thơm đặc trưng. Quả cam có cùi dày, giúp bảo quản được lâu.
Cam sành Hà Giang có tỉ lệ dinh dưỡng cao, đạt chuẩn organic, an toàn, và rất có lợi cho sức khỏe. Ăn cam sành thường xuyên giúp da dẻ hồng hào, ngăn ngừa mụn và tốt cho tim mạch. Với giá trị dinh dưỡng cao và đặc trưng riêng, cam sành Hà Giang đã trở thành đặc sản trứ danh của nơi đây.
Chè Shan Tuyết Cao Bồ
Chè Shan Tuyết, giống chè quý hiếm, chỉ thích hợp điều kiện môi trường ở độ cao 1.300m trở lên. Chè Shan Tuyết có búp to màu trắng xám, dưới lá có phủ một lớp lông tơ mịn, trắng. Những cánh chè tươi non sau khi hái về sẽ được sấy khô tự nhiên hoặc xao thủ công trên lò nóng.
Phương pháp sấy chè của người Dao rất độc đáo, đó là cho chè vào ống giang rồi sấy trên bếp lửa. Sau khi sấy khô, những cánh chè sẽ được nhồi vào ống nứa, vừa giúp chè không hỏng, còn giúp tạo hương vị đặc biệt cho loại chè Shan Tuyết Cao Bồ hảo hạng. Chè Shan Tuyết Cao Bồ có giá trị kinh tế rất cao, chủ yếu được xuất khẩu ra một số nước châu Âu và châu Á như Trung Quốc, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Mỗi năm, xã Cao Bồ xuất khẩu khoảng 200 tấn chè Shan Tuyết.
Rượu thóc Nàng Đôn
Rượu thóc Nàng Đôn là sản phẩm đặc trưng của đồng bào dân tộc ở vùng đất địa đầu cực bắc Tổ Quốc. Quá trình sản xuất rượu thóc được thực hiện theo phương pháp cổ truyền, từ việc làm men lá, hấp thóc đến khi chưng cất rượu. Men lá được làm từ 36 loại lá cây được hái từ rừng tự nhiên, trong đó có các loại cây thuốc quý.
Thóc nương sau khi được làm sạch sẽ được luộc trong chảo gang từ 4-5 giờ, sau đó được trộn với men lá và ủ trong vòng 24 giờ. Rượu thóc Nàng Đôn được ủ trong khoảng 30 ngày, sau đó được chưng cất bằng nguồn nước ngầm tự nhiên. Rượu thóc sau khi được chưng cất hai lần có mùi thơm thanh quyến rũ, uống vào ngọt thanh, không sốc và thơm mùi nếp nương đặc trưng. Rượu thóc Nàng Đôn được ủ trong chum sành từ 6 tháng đến 1 năm trước khi sử dụng, để có mùi thơm thanh khiết hơn.
Mật ong bạc hà
Mật ong bạc hà là một sản vật nổi tiếng của cao nguyên đá Đồng Văn, với màu sắc vàng chanh đẹp mắt và hương vị thơm mát đặc trưng. Vì điều kiện địa lý khắc nghiệt, chỉ có 3 huyện của Hà Giang là Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc mới có hoa bạc hà mọc để làm nguồn mật cho ong. Tuy nhiên, do loại cây bạc hà mọc hoang dại và lượng mật thu được không nhiều, nên mật ong bạc hà có giá thành cao nhất trong các loại mật ong. Mật ong bạc hà thường được thu hoạch vào mùa đông.
Mật ong bạc hà nguyên chất có màu vàng xanh tự nhiên, màu sắc phụ thuộc vào tỷ lệ hạt phấn bạc hà có trong mật ong. Mùi vị của mật ong bạc hà rất đặc trưng, thơm dịu và ngọt lịm. Tuy nhiên, để giữ được chất lượng của mật ong bạc hà, không nên để nó trong tủ lạnh vì nhiệt độ lạnh có thể làm tăng nhanh quá trình kết tinh của mật ong, dẫn đến sự xuất hiện của các váng kết tinh trong chai và làm giảm chất lượng của mật ong.
Cháo ấu tẩu
Cháo ấu tẩu là một món ăn đặc biệt ở Hà Giang, được nấu từ củ ấu phải trải qua quá trình nấu lâu để khử độc tố, thông thường nấu từ 5h chiều ngày hôm trước đến 6h sáng ngày hôm sau. Sau khi củ ấu hết độc tố, đây được kết hợp với gạo nếp cái hoa vàng và gạo tẻ thơm nấu nhuyễn trong nước hầm xương chân giò, cùng với thịt nạc thăn băm nhỏ, hành, rau mùi và trứng gà để tạo nên hương vị đặc trưng.
Để kiểm tra xem cháo đã được nấu chín và ấu tẩu đã hết độc, người ta thường nếm cháo và cảm nhận trên đầu lưỡi. Nếu đầu lưỡi bị tê cứng, máu đông cứng lại thì có nghĩa là ấu tẩu chưa hết độc, còn nếu không có tình trạng này thì cháo đã sẵn sàng để ăn.
Những người nấu cháo ấu tẩu lâu năm ở Hà Giang khuyên rằng khi nấu cháo, không nên sử dụng nồi áp suất vì nếu nấu vào nồi áp suất, ấu tẩu sẽ nhanh chín nhưng lượng độc tố có trong củ ấu sẽ không phân hủy hết. Nếu nấu đúng cách, cháo ấu tẩu còn có tác dụng giải cảm, khử độc trong cơ thể và chữa nhức mỏi lưng.
Thịt bò khô Đồng Văn
Thịt bò khô là một đặc sản quý của miền cao nguyên đá Đồng Văn, được chế biến bằng cách thái thịt theo thớ dọc, ướp gia vị và sau đó hong khói hoặc sấy khô bằng than củi. Với cách làm này, thịt có thể ăn ngay hoặc treo lên gác bếp để khói hun thịt một cách tự nhiên để thịt quắt lại và chín thêm.
Để có được một kg thịt bò khô nguyên chất, đúng kiểu của đồng bào, cần có sự chuẩn bị, lựa chọn nguyên liệu, pha ướp gia vị hợp lý để thịt có màu nâu óng, mặt ngoài vương bồ hóng, ám khói, dai và thơm.
Thịt bò khô Hà Giang thường được dùng kèm với rượu ngô Hà Giang, do bà con dân tộc chính tay chưng cất, để làm cho bò khô thêm phần hấp dẫn. Tuy nhiên, với những người không uống rượu, thịt bò khô cũng có thể được ăn như một món ăn chơi hoặc tráng miệng.
Quýt chum vỏ vàng
Ở Bắc Quang - Hà Giang, giống quýt chum vỏ vàng đã được trồng từ cuối những năm thập kỷ 70 và đến nay vẫn chiếm diện tích trồng cây ăn quả có múi của tỉnh khoảng 3 - 5%. Năng suất của giống cây này ở độ tuổi từ 8 - 10 năm đạt được khoảng 90 - 140 tạ/ha.
Giống quýt chum có vỏ hơi sần sùi, dễ bóc tách và ăn có vị ngọt, mát, mọng nước. Mỗi quả thường có từ 3 - 5 hạt và nặng khoảng 120 - 150g. Cây có chiều cao trung bình và quả khi còn non có màu xanh lục đậm. Khi chín, quả sẽ có màu vàng đỏ nổi bật và hấp dẫn.
Theo kinh nghiệm của người dân địa phương, để trồng được quýt chum đạt năng suất cao, thời gian trồng nên vào cuối mùa mưa trên đất bồi tụ, đất rừng mới khai phá. Đồng thời, cần thường xuyên tỉa cành già cỗi, sâu bệnh, cành vượt, cành khô để tạo điều kiện cho tán cây được thông thoáng, khi ấy cây mới cho ra quả xum xuê. Tất cả những yếu tố này đều tạo nên hương vị đặc biệt và giá trị dinh dưỡng cao của giống quýt chum độc đáo này.
Bảo An