Nguyên nhân Việt Nam tăng nhập khẩu cà phê
Mặc dù là quốc gia xuất khẩu cà phê robusta lớn nhất thế giới, nhưng Việt Nam đã chi 110 triệu USD để nhập khẩu cà phê trong 7 tháng qua. Sự chênh lệch này cho thấy một số yếu tố quan trọng và nhu cầu đặc biệt trong ngành cà phê tại Việt Nam.
Theo Tổng cục Thống kê, trong tháng 7, xuất khẩu cà phê đạt 70.000 tấn, giảm gần 36% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 7 tháng năm 2024, lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt 964.000 tấn, giảm gần 14% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu đạt 3,54 tỉ USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm 2023. Kim ngạch xuất khẩu tăng cao dù lượng giảm là nhờ giá cà phê từ đầu năm đến nay liên tục duy trì mức cao.
Để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, các doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu cà phê từ các nước lân cận như Indonesia, Lào, Thái Lan, Brazil, Bỉ.... Điều này đã được dự báo từ cuối tháng 4/2024 trong cuộc họp của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam.
Lý giải về nguyên nhân trên, Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam chia sẻ, cũng như các nông sản khác (gạo, hạt điều…), Việt Nam nhập khẩu cà phê nhiều năm nay từ các nước khác về chủ yếu phục vụ chế biến xuất khẩu. Như cà phê nhân, Việt Nam nhập khẩu từ các nước có giá bán thấp hơn, hoặc những loại cà phê mà Việt Nam trồng được ít do khí hậu thổ nhưỡng như cà phê Arabica. Việt Nam nhập loại cà phê này từ Lào do giá bán của họ thấp hơn ở Việt Nam. Cà phê Arabica trong nước chỉ có một số vùng trồng được nên số lượng hạn chế, trong khi loại này có chất lượng cao nên phải nhập khẩu về tiêu thụ.
Còn đối với cà phê chế biến, những năm gần đây, hệ thống chuỗi cà phê trong nước đã phát triển mạnh mẽ, đồng thời nhiều thương hiệu cà phê quốc tế cũng đã mở rộng chuỗi cửa hàng ra khắp các thành phố lớn tại Việt Nam. Do đó, nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chuỗi cà phê hiện nay chủ yếu nhập khẩu các sản phẩm cà phê đã chế biến sẵn, chẳng hạn như cà phê rang xay và cà phê hòa tan.
Bên cạnh đó, nguồn cung cà phê trong nước không đủ, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã phải nhập khẩu cà phê từ các nước lân cận để đáp ứng nhu cầu nội địa và chế biến xuất khẩu. Trong 7 tháng qua, tổng giá trị nhập khẩu cà phê đạt 110 triệu USD.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cà phê là một trong những mặt hàng xuất siêu cao nhất với con số 3,43 tỉ USD và tốc độ tăng cao nhất, đạt 32% so với cùng kỳ năm 2023 sau 7 tháng đầu năm 2024.
Trên thế giới, giá cà phê, đặc biệt là giá cà phê Arabica, vẫn tiếp tục đà giảm do áp lực từ tiến độ thu hoạch cà phê niên vụ mới tại Brazil.
Trên các sàn giao dịch lớn như London và New York, thị trường cà phê ghi nhận sự suy giảm trong giao dịch và biến động giá.
Tại sàn London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm xuống còn 4.266 USD/tấn (giảm 1 USD), kỳ hạn tháng 11 giảm còn 4.118 USD/tấn (giảm 4 USD), và kỳ hạn tháng 1/2025 giảm còn 3.969 USD/tấn (giảm 4 USD).
Ngược lại, giá cà phê arabica trên sàn New York tăng nhẹ. Kỳ hạn tháng 9 tăng lên 5.168 USD/tấn (tăng 8,8 USD), kỳ hạn tháng 12 tăng lên 5.163 USD/tấn (tăng 5,5 USD), và kỳ hạn tháng 3/2025 đạt 5.126 USD/tấn (tăng 3,3 USD).
Tại Brazil, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng lên 6.396 USD/tấn (tăng 12,3 USD), kỳ hạn tháng 12 đạt 6.576 USD/tấn (tăng 16,5 USD), và kỳ hạn tháng 3/2025 đạt 6.218 USD/tấn (tăng 4,4 USD).
Tại thị trường nội địa, cà phê tại khu vực Tây Nguyên giảm 400 đồng/kg. Giá cà phê tại Đắk Nông là 124.100 đồng/kg, Đắk Lắk là 123.800 đồng/kg, Gia Lai và Kon Tum là 123.400 đồng/kg, và Lâm Đồng là 123.400 đồng/kg.
Mặc dù Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới, việc phải nhập khẩu cà phê để đáp ứng nhu cầu trong nước cho thấy sự phức tạp và biến động của thị trường cà phê toàn cầu. Điều này đồng thời cũng minh chứng cho tầm quan trọng của việc duy trì nguồn cung ổn định cho ngành công nghiệp cà phê trong nước.