FTA - “Đường cao tốc” đưa hàng Việt chinh phục thị trường toàn cầu
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác quan trọng, mở ra cánh cửa lớn cho xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế.
Các FTA không chỉ giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu vào thị trường toàn cầu, hưởng ưu đãi thuế quan, mà còn thúc đẩy cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, tận dụng hiệu quả các FTA được xem là “đường cao tốc” để hàng Việt gia tăng giá trị, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế trên bản đồ thương mại thế giới.
Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác quan trọng, mở ra cánh cửa lớn cho xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế. Các FTA không chỉ giúp hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu vào thị trường toàn cầu, hưởng ưu đãi thuế quan, mà còn thúc đẩy cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, tận dụng hiệu quả các FTA được xem là “đường cao tốc” để hàng Việt gia tăng giá trị, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế trên bản đồ thương mại thế giới.
FTA thế hệ mới mở rộng “biên giới” xuất khẩu cho hàng Việt
Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 FTA với các đối tác hàng đầu như ASEAN, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Australia… Năm 2024, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện với Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) được ký kết, hiện đang hoàn thiện thủ tục để chính thức có hiệu lực.
Điểm đáng chú ý, các cam kết trong FTA ngày càng mở rộng, không chỉ dừng lại ở cắt giảm thuế nhập khẩu hay hạn ngạch thuế quan, mà còn bao trùm nhiều lĩnh vực: dệt may, quy tắc xuất xứ, lao động, dịch vụ và đầu tư, mua sắm chính phủ, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển bền vững…
Tại Diễn đàn kinh doanh 2025, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương nhấn mạnh vai trò then chốt của các FTA trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt đối với những mặt hàng chủ lực của Việt Nam.

Theo đó, mỗi FTA mang lại tác động khác nhau. Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) tập trung vào thuận lợi hóa thương mại, với lộ trình tự do hóa thuế quan kéo dài 15 - 20 năm, dự báo đóng góp 0,5% - 1% vào tăng trưởng GDP. Hiệp định CPTPP mở cửa mạnh hơn, giảm 97% - 100% dòng thuế trong tối đa 11 năm, giúp GDP dự kiến tăng 1% - 2%. Riêng EVFTA, một trong những FTA thế hệ mới quan trọng có mức cam kết sâu rộng, giảm gần toàn bộ thuế quan trong 0 - 7 năm, dự kiến giúp GDP tăng thêm 2% - 3%.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hội: “Các FTA là “đường cao tốc” đưa hàng hóa Việt Nam đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu. Chúng không chỉ mở rộng quy mô và đa dạng hóa thị trường, mà còn giúp doanh nghiệp giảm chi phí nhờ ưu đãi thuế quan”.
Năm 2024, Việt Nam đạt GDP 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 thế giới; GDP bình quân đầu người đạt 4.649 USD. Vốn FDI đạt 25,35 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thu hút đầu tư lớn nhất. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 769 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 405,53 tỷ USD, đứng thứ 20 thế giới. Nhiều ngành hàng đạt thành tích ấn tượng: xuất khẩu nông sản 32,8 tỷ USD, xuất khẩu gạo 9,18 triệu tấn trị giá 5,75 tỷ USD, giữ vị trí thứ 3 toàn cầu.
Những con số này cho thấy FTA đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ thương mại thế giới. Các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA không chỉ tạo thuận lợi thương mại mà còn đặt ra tiêu chuẩn cao về lao động, môi trường, minh bạch hóa… Điều này buộc Việt Nam phải tiếp tục cải cách thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải thiện môi trường đầu tư.
Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hội cũng chỉ ra nhiều thách thức: sự phụ thuộc lớn vào một số thị trường và khu vực FDI; tỷ trọng thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu còn cao; thị trường dịch vụ tài chính trong nước chưa phát triển; năng lực cán bộ quản lý nhà nước cần được nâng cao.
Đòn bẩy tăng trưởng bền vững
Về giải pháp, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo; đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo; áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc cho nông, thủy sản xuất khẩu; mở rộng thị trường theo hướng bền vững; nâng cấp hạ tầng logistics, giảm chi phí vận chuyển.

Với cộng đồng doanh nghiệp, cần nâng cao vai trò các hiệp hội ngành hàng, hình thành doanh nghiệp hạt nhân dẫn dắt chuỗi giá trị xuất khẩu, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp FDI và trong nước để lan tỏa lợi ích. Đặc biệt, doanh nghiệp phải chủ động đáp ứng các tiêu chuẩn của FTA, tận dụng ưu đãi thuế quan, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm để giảm rủi ro.
Ông khẳng định: “Tận dụng hiệu quả các FTA, đặc biệt tại các thị trường châu Âu, Nhật Bản và Halal, sẽ giúp hàng Việt vươn xa, tiếp cận phân khúc giá trị cao và tạo đòn bẩy tăng trưởng bền vững”.
Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội nhận định, trong bối cảnh chiến tranh thương mại vẫn căng thẳng nhưng cơ hội vẫn rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Phải huy động tiềm năng từ các cơ hội xuất khẩu cho doanh nghiệp để hiện thực mục tiêu sản xuất kinh doanh cũng như tăng trưởng.
Thực tế hiện nay doanh nghiệp trong nước vẫn đang cạnh tranh từ nguyên liệu đến thị trường. Nhưng nếu doanh nghiệp cùng “bắt tay nhau” thì sẽ khác. Một trong những giải pháp đưa ra để thực hiện được điều này là rất cần là sự chủ động hỗ trợ của các Hiệp hội doanh nghiệp để tạo mối liên kết, hệ sinh thái chuỗi cung ứng giữa các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, tìm ra những doanh nghiệp “đầu đàn” đóng vai trò dẫn dắt chuỗi cung ứng và Nhà nước có cơ chế hỗ trợ những doanh nghiệp này, tạo liên kết giữa các doanh nghiệp lớn nhỏ. Nhà nước cũng đồng thời hỗ trợ ký kết các Hiệp định mở rộng các thị trường.
Theo ông Hoàng Văn Cường, hiện nay để giúp doanh nghiệp đặt chân vào các thị trường từ các Hiệp định đã ký kết thì vẫn thiếu những kế hoạch xúc tiến chiến lược, thực hiện đẩy mạnh thông tin về thị trường của từng ngành, từng nhóm sản phẩm tới các doanh nghiệp.
Ông Hoàng Văn Cường cũng lưu ý tới việc hoàn thiện hệ thống hạ tầng phục vụ các yếu tố xuất khẩu, dịch vụ bổ trợ; tăng cường liên kết các doanh nghiệp không chỉ nội địa mà các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp tiêu thụ nước ngoài.
Bảo Thoa