Chinh phục mục tiêu 2 tỷ USD trong xuất khẩu sắn
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa phê duyệt Đề án “Phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, trong đó đưa ra mục tiêu đến năm 2030, sản lượng sắn vượt 12 triệu tấn, xuất khẩu đạt 2 tỷ USD.
Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn của Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực quan trọng đứng hàng thứ ba sau lúa và ngô. Tuy nhiên cây sắn hiện nay đã chuyển đổi vai trò từ cây lương thực, thực phẩm thành cây công nghiệp hàng hóa có lợi thế cạnh tranh cao. Sản xuất sắn là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ nông dân nghèo do sắn dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp sinh thái và điều kiện kinh tế nông hộ. Năng suất sắn của Việt Nam hiện nay đứng khoảng thứ 10 trong số các quốc gia năng suất cao. Tuy nhiên, năng suất 17,6 tấn/ha chỉ tương đương 50% so với năng suất sắn tại Ấn Độ, thấp hơn năng suất sắn tại Campuchia khoảng 18%, thấp hơn Indonesia 15% và thấp hơn Thái Lan là 9%. Vẫn còn triển vọng để tăng sản lượng bằng cách cải thiện năng suất, dù diện tích trồng sẽ gặp khó khăn trong tương lai do sự cạnh tranh từ các loại cây khác cũng như do quy hoạch sử dụng đất. Điều này có thể đạt được thông qua việc đầu tư vào công tác chọn tạo giống và kỹ thuật canh tác sắn bền vững. Việt Nam hiện đã trở thành một điển hình tiên tiến trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ chọn tạo và nhân giống sắn lai ở khu vực châu Á.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan năm 2023, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ sắn và các sản phẩm từ sắn lớn nhất của Việt Nam, chiếm 91,52% về lượng và chiếm 90,99% về trị giá trong tổng xuất khẩu của cả nước, đạt 2,7 triệu tấn, trị giá 1,18 tỷ USD, giảm 9,3% về lượng và giảm 7,7% về trị giá so với năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam sang Trung Quốc năm 2023 ở mức 438,9 USD/tấn, tăng 1,7% so với năm 2022.
Trong quý 1 năm 2024, Việt Nam đã xuất khẩu tổng cộng 944.936 tấn sắn và sản phẩm từ sắn, thu về 430,4 triệu USD. Mặc dù lượng xuất khẩu giảm 3,3%, nhưng kim ngạch xuất khẩu tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Điều này là do giá sắn xuất khẩu trung bình đã tăng 19,4%, từ mức 381,3 USD/tấn lên mức 455,5 USD/tấn.
Mục tiêu phát triển ngành sắn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chính thức thông qua Đề án "Phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2050". Đề án này tập trung vào việc áp dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất và chế biến sắn, thúc đẩy sự đa dạng hóa và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, và tận dụng tối đa các sản phẩm phụ trong quá trình chế biến sắn.
Mục tiêu đề ra cho đến năm 2030 bao gồm: sản lượng sắn tươi trên toàn quốc đạt từ 11,5 đến 12,5 triệu tấn, trong đó có khoảng 85% sẽ được sử dụng để chế biến thành các sản phẩm như tinh bột, etanol, mỳ chính và các sản phẩm khác; diện tích trồng sắn sẽ sử dụng giống chất lượng đạt từ 40 đến 50%; diện tích trồng sắn áp dụng phương pháp canh tác bền vững sẽ đạt 50%; và kim ngạch xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn đạt từ 1,8 đến 2,0 tỷ USD.
Cả nước hiện có 5 vùng trọng điểm trong việc phát triển ngành sản xuất sắn, mỗi vùng được định hướng cụ thể cho đến năm 2030 như sau:
1. Vùng Trung du miền núi phía Bắc: Mục tiêu là có diện tích trồng từ 100 đến 105 nghìn ha, sản lượng củ tươi đạt từ 1,8 đến 2,0 triệu tấn. Đây là vùng tập trung chủ yếu ở các tỉnh như Sơn La, Điện Biên, Yên Bái, Hòa Bình, và Lai Châu, với tổng công suất chế biến dự kiến từ 0,6 đến 1,0 triệu tấn củ tươi mỗi năm.
2. Vùng Bắc Trung Bộ: Mục tiêu bao gồm diện tích trồng từ 50 đến 55 nghìn ha, và sản lượng củ tươi từ 1,1 đến 1,2 triệu tấn. Các tỉnh tập trung ở đây bao gồm Nghệ An, Thanh Hoá, Quảng Trị, và Quảng Bình, với tổng công suất chế biến từ 1,0 đến 1,2 triệu tấn củ tươi mỗi năm.
3. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: Mục tiêu là có diện tích trồng từ 85 đến 90 nghìn ha và sản lượng củ tươi từ 2,1 đến 2,3 triệu tấn. Các tỉnh tập trung ở đây bao gồm Phú Yên, Bình Thuận, Quảng Ngãi, và Bình Định, với tổng công suất chế biến từ 1,0 đến 1,2 triệu tấn củ tươi mỗi năm.
4. Vùng Tây Nguyên: Mục tiêu bao gồm diện tích trồng từ 150 đến 160 nghìn ha và sản lượng củ tươi từ 3,5 đến 3,7 triệu tấn. Các tỉnh tập trung ở đây bao gồm Gia Lai, Đắk Lắk, và Kon Tum, với tổng công suất chế biến từ 2,0 đến 2,2 triệu tấn củ tươi mỗi năm.
5. Vùng Đông Nam Bộ: Mục tiêu bao gồm diện tích trồng từ 90 đến 95 nghìn ha và sản lượng củ tươi từ 3,1 đến 3,3 triệu tấn. Các tỉnh tập trung ở đây bao gồm Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, và Bình Phước, với tổng công suất chế biến từ 8,5 đến 9,2 triệu tấn củ tươi mỗi năm.
Mục tiêu đến năm 2050, ngành sắn của Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững, với hơn 70-80% diện tích trồng sắn áp dụng phương pháp canh tác bền vững, hơn 90% sản lượng sắn tươi được sử dụng để chế biến thành các sản phẩm gia truyền và hiện đại. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn đạt từ 2,3 đến 2,5 tỷ USD.
Nhiệm vụ trong lĩnh vực khoa học công nghệ của Đề án là:
Trong lĩnh vực khoa học công nghệ của Đề án tập trung vào việc thu thập, trao đổi và bảo quản nguồn gen của các giống sắn để phục vụ cho công tác chọn tạo giống; nghiên cứu và áp dụng các giống sắn mới có năng suất cao, hàm lượng tinh bột cao, và khả năng chống chịu với các loại sâu bệnh phổ biến như khảm lá sắn, chổi rồng, và thối củ.
Mở rộng và hoàn thiện hệ thống nhân giống sắn theo các cấp độ khác nhau (giống gốc/giống đầu dòng, giống cấp 1, giống cấp 2), tập trung vào việc sản xuất giống sạch và chất lượng tại các địa phương để tăng tỷ lệ sử dụng giống sắn đúng tiêu chuẩn.
Nghiên cứu và áp dụng các quy trình kỹ thuật sản xuất sắn theo hướng bền vững, bao gồm cơ giới hóa các công đoạn trồng, chăm sóc, thu hoạch và vận chuyển sắn, đặc biệt tập trung vào các vùng sinh thái. (iv) Nghiên cứu, phát triển hoặc nhập khẩu công nghệ mới trong việc chế biến sắn và đa dạng hóa các sản phẩm từ sắn.
Đồng thời, việc thực hiện đồng bộ các biện pháp khoa học công nghệ trong chế biến các sản phẩm từ sắn được coi là cực kỳ quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.
Việc Chính phủ phê duyệt Đề án được đánh giá là phù hợp với Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, ngoài ra còn phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng địa phương, trọng tâm là điều kiện đất đai, định hướng cơ cấu cây trồng... đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất. Từ đó khuyến khích, huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, chế biến và xuất khẩu sản phẩm sắn. Điều này sẽ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho các nhà sản xuất và nông dân, mà còn góp phần vào sự phát triển toàn diện của cộng đồng và đất nước. Chúng ta hy vọng rằng những nỗ lực không ngừng này sẽ giúp ngành hàng sắn của Việt Nam tỏa sáng trên trường quốc tế, đóng góp vào sự thịnh vượng và phát triển của đất nước.