Chi phí logistics quá cao cản trở sức cạnh tranh nông sản Việt ra thế giới
Mặc dù ngành nông nghiệp của Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn, thế nhưng chưa thể cạnh trạnh được với các nước phát triển. Các chuyên gia chỉ ra rằng, do chi phí logistics cao, phục thuộc lớn vào các hãng vận chuyển nước ngoài khiến ngành này dù nhiều lợi thế nhưng vẫn chịu nhiều thua thiệt.
Logistics nông nghiệp phát triển chưa tương xứng
Việc nhiều tấn nông sản bị ứ đọng do dịch Covid-19 không thể xuất khẩu đã không chỉ đặt ra bài toán về thị trường tiêu thụ nông sản mà còn liên quan đến tất cả các khâu, trong đó có chuỗi giá trị cung ứng (logistics).
Điều này cũng cho thấy vấn đề vận chuyển, kho bãi, lưu trữ… đối với các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta còn nhiều hạn chế. Do vậy, để đảm bảo giá trị bền vững cho ngành nông nghiệp, việc đầu tư phát triển hệ thống logistics trong nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng nhằm nâng cao giá trị nông sản và là đòn bẩy xuất khẩu sang thị trường lớn.
Theo thống kê hàng năm Việt Nam xuất khẩu hàng trăm nghìn tấn nông sản ra thế giới, đóng góp lớn cho nên kinh tế.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2022, tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 3,36%, trong đó nông nghiệp tăng 2,88%, thủy sản tăng 4,43%, lâm nghiệp tăng 6,13%. Đây là mức tăng cao nhất trong nhiều năm gần đây.
Thị trường tiêu thụ nông lâm thủy sản tiếp tục phát triển, thị trường trong nước được mở rộng thông qua phát triển các kênh tiêu thụ, gia tăng thương mại điện tử. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt mức cao kỷ lục trên 53,22 tỷ USD, có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 7 mặt hàng trên 3 tỷ USD, gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, rau quả, hạt điều, gạo, cao su, cà phê.
Tổ chức liên kết chuỗi sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp tiếp tục được đổi mới phù hợp với thị trường, sản xuất hàng hóa lớn; tổ chức nhiều hội chợ, hội nghị xúc tiến, xây dựng 2.510 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn; nhiều mô hình liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp, hợp tác xã theo chuỗi được triển khai nhân rộng. Năm 2022, thành lập mới 821 doanh nghiệp nông nghiệp, nâng tổng số lên gần 15.000 doanh nghiệp.
Theo đánh giá, những năm gần đây, logistics Việt Nam đã có sự đầu tư và phát triển, tăng trưởng hàng năm từ 14-16%, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á, với giá trị 40-42 tỷ USD/năm. Logistics phát triển đã góp phần khắc phục hạn chế của ngành nông nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản và giảm đáng kể tổn thất sau thu hoạch so với trước đây.
Mặc dù ngành nông nghiệp đã đạt được những kết quả khả quan trong năm 2022 nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, logistics phục vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản do mới phát triển nên còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, so với yêu cầu của một nước sản xuất nông sản hàng đầu, khối lượng nông sản tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đều lớn như nước ta.
Thống kê từ Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho biết, hiện nay 95% số doanh nghiệp logistics đang hoạt động là doanh nghiệp trong nước. Số lượng doanh nghiệp nhiều song chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế.
Các doanh nghiệp dịch vụ logistics cũng chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do vậy, ở cả chiều mua và bán doanh nghiệp logistics trong nước đang đứng trước nhiều hạn chế về sân chơi. Đây cũng là thực tế của các doanh nghiệp logistics trong nông nghiệp.
Không những vậy, dịch vụ logistics cho hàng hóa nông sản ở nước ta hiện còn nhiều bất cập, hệ thống kho bãi manh mún, cơ sở chế biến nông sản còn thiếu, quy mô nhỏ; chuỗi kho lạnh còn chưa phổ biến.
Theo thống kê, hiện cả nước có 48 kho lạnh làm dịch vụ bảo quản nông - thủy sản với công suất khoảng 700 nghìn palet và hàng nghìn kho lạnh với tổng công suất bảo quản ước đạt 2 triệu tấn sản phẩm phục vụ cho một số thị trường nhất định, chủ yếu là xuất khẩu.
Ngoài ra, còn có hàng chục nghìn phương tiện xe lạnh và container lạnh phục vụ vận chuyển nông - thủy sản… Tuy nhiên, số lượng kho lạnh đó chưa đáp ứng được nhu cầu bảo quản nông sản, thủy sản phục vụ nhu cầu bảo quản tươi và chế biến xuất khẩu.
Cùng với đó, hạ tầng kho bãi tại các cửa khẩu chưa đáp ứng được nhu cầu lưu giữ hàng hóa xuất nhập khẩu, đặc biệt là hệ thống kho lạnh. Thiết bị nâng, hạ, xếp dỡ, sang tải hàng hóa còn thiếu. Hiện nay, việc xếp dỡ hàng hóa nông sản chủ yếu bằng thủ công là chính, gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm cũng như hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá.
Có thể thấy kênh phân phối và bảo quản sản phẩm nông sản chủ yếu qua các chợ đầu mối và chợ dân sinh. Trong khi đó hệ thống này chưa thể đáp ứng được yêu cẩu đảm bảo cung ứng số lượng lớn và chất lượng nông sản phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu.
Chi phí quá cao khó cạnh tranh với nước ngoài
Có thể thấy hoạt động logistics phụ thuộc rất lớn vào cơ sở hạ tầng. Ở nước ta, dịch vụ logistics mới chỉ phát triển mạnh ở một số tỉnh, thành phố thuộc các khu vực kinh tế trọng điểm. Trong khi đó, nhiều vùng tập trung sản xuất hàng hóa nông sản lại thiếu vắng loại hình dịch vụ này.
Bên cạnh đó, chưa có sự kết nối giữa các phương tiện giao thông tại các điểm trung chuyển hàng, tại cửa khẩu quốc tế giao thông đường sắt chưa phát huy được lợi thế do khác biệt về khổ đường ray...
Tình trạng thiếu kho bãi tại vùng sản xuất, cửa khẩu và ùn tắc giao thông thời gian vừa qua đã khiến chi phí logistics của Việt Nam đã cao lại càng cao hơn nữa. Theo tính toán, hiện chi phí logistics của nông sản Việt chiếm từ 25-30% trong giá thành. Cao hơn mức 12,5% của Thái Lan và thế giới là 14%.
Theo Công ty TNHH Xuất nhập khẩu trái cây tại Bến Tre, chỉ riêng thị trường Mỹ, cước vận chuyển trái cây tươi hiện ở mức 6-6,2 USD/kg, tăng gấp đôi so với trước đó. Công ty cổ phần Thủy sản Sóc Trăng cũng cho biết, hiện giá container xuất khẩu thủy sản đi Mỹ tăng gấp nhiều lần so với trước, có thời điểm lên tới gần 20.000 USD/container nhưng cũng rất khó để thuê
Ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Tập đoàn Vina T&T chia sẻ, chi phí nông sản tại Việt Nam đang rất cao, chiếm khoảng 20-25% giá trị hàng hóa, khong khi đó tỷ lệ này ở Thái lan chỉ là 12% hay thế giới là 14%.
“Nông sản của các nước khác có thể không hơn Việt Nam về chất lượng nhưng họ hơn về giá thành. Chỉ riêng chi phí logistics, giá thành sản phẩm của chúng ta đã hơn các thị trường khác mười mấy %. Như vậy rất khó để cạnh tranh”, ông Tùng nhận định.
Đồng quan điểm, bà Nguyễn Nam Phương Thảo, Giám đốc Kinh doanh Công ty Hoàng Phát cho hay, giá cước vận tải từ Bangkok đến các thị trường quốc tế thấp hơn so với từ Hà Nội hay TP.HCM ít nhất từ 1-2 USD/kg. Điều này làm cho nông sản Việt khó có thể cạnh tranh với nông sản Thái trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, chi phí tại cảng và các khoản phụ phí vẫn còn cao. Không có hàng không với đội bay chuyên trở hàng hóa riêng biệt phục vụ cho các sản phẩm nông nghiệp, nên chi phí vận chuyển bằng đường hàng không cao hơn nhiều so với các nước lân cận.Thời gian xử lý tại cảng hoặc vận chuyển dài.
Xuất khẩu trái cây phải trải qua nhiều công đoạn nhưng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ của chúng ta phát triển chưa đồng bộ, chưa thật sự kết nối nên phát sinh nhiều thời gian, chi phí, gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, giá thành của nông sản.
Bà Nguyễn Tú Uyên, Tổng Giám đốc Công ty CMU Logistics, Hệ thống cao tốc vẫn bị kẹt xe tại các nút giao, điểm nghẽn. Hệ thống kho bãi manh mún, cơ sở chế biến nông sản còn thiếu, quy mô nhỏ. Chuỗi kho mát, kho lạnh phục vụ cho nông sản còn thiếu.
Hãng tàu, hãng hàng không đang hoạt động tại Việt Nam hầu hết đều của nước ngoài, nên doanh nghiệp bị phụ thuộc vào giá cước vận chuyển, thời gian transit, lịch vận chuyển…
Trong khi đó, ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), cho rằng hạ tầng cơ ở sản xuất, chế biến, bảo quản tại Việt Nam còn yếu khiến tình trạng hao hụt ở mức cao. Rau quả xuất khẩu phải có những kho riêng, phương tiện vận chuyển riêng nhưng hiện chúng ta vẫn chưa có, vẫn thực hiện cùng với các loại nông sản khác. Chính vì vậy, hao hụt, tổn thất sau thu hoạch rất cao, lên tới 30-35%.
Quang Anh