Bức tranh kinh tế Việt Nam trong quý 1/2023
Trong quý đầu năm, tăng trưởng GDP chỉ đạt 3,3%, nếu không xét thời điểm nền kinh tế bị tác động tiêu cực bởi COVID-19 (quý I/2020 và quý III/2021) thì đây là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ quý I/2009.
Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá, mặc dù kinh tế toàn cầu quý vừa qua có nhiều rủi ro, rủi ro suy thoái kinh tế vẫn còn và rủi ro tài chính – tiền tệ gia tăng, tuy vậy kinh tế Việt Nam quý 1/2023 ghi nhận 6 điểm sáng.
Chính phủ quyết liệt, nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng. Trong quý 1, Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo, giải pháp nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn của nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng.
Nhằm tháo gỡ khó khăn cho lĩnh vực y tế, Chính phủ ban hành Nghị định 07/2023/NĐ-CP ngày 3/3/2023 sửa đổi, bổ sung Nghị định 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế; Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 4/3/2023 về bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế; một số vướng mắc dần được tháo gỡ.
Với lĩnh vực tài chính và bất động sản , Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các Nghị định quy định về trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) riêng lẻ đang hỗ trợ xử lý nợ TPDN đáo hạn; Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/03/2023 về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường BĐS phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững. Đặc biệt, Nghị định 10/2023/NĐ-CP ngày 3/4/2023 được coi là biện pháp mạnh tháo gỡ vướng mắc về hành lang pháp lý cho bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng.
Nhằm hỗ trợ tăng trưởng, chính sách tài khóa và tiền tệ được điều chỉnh theo hướng nới lỏng, mở rộng phù hợp. Đối với chính sách tài khóa , Chính phủ nỗ lực thúc đẩy giải ngân đầu tư công (Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 23/3/2023), đạt kết quả quan trọng ban đầu như đánh giá dưới đây cùng với việc nghiên cứu ban hành các giải pháp giãn, hoãn thuế, phí năm 2023. Đối với chính sách tiền tệ, NHNN đã điều hành linh hoạt khi 2 lần giảm một số lãi suất điều hành (ngày 14/3 và 31/3) với mức giảm từ 0,5 – 1%, qua đó thể hiện tính chủ động “chuyển trạng thái” từ thận trọng sang chủ động, linh hoạt nới lỏng chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện thị trường bên ngoài và bên trong nền kinh tế.
Lĩnh vực dịch vụ phục hồi tốt, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 6,79% (đóng góp 89% vào mức tăng trưởng chung, không kể thuế sản phẩm), trong khi lĩnh vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4% (làm giảm 4,76% mức tăng trưởng chung). Trong đó, nổi bật là dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 26% (chủ yếu do du lịch phục hồi mạnh và chi tiêu dịp Tết), bán buôn và bán lẻ tăng 8,1%, dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,65%, vận tải - kho bãi tăng 6,85%...v.v.
Lạm phát hạ nhiệt, được kiểm soát ở mức phù hợp : hết quý 1, CPI bình quân bình quân tăng 4,18% (giảm từ mức 4,6% bình quân 2 tháng đầu năm) và lạm phát cơ bản tăng 5,01 % so cùng kỳ (giảm từ mức 5,08% bình quân của 2 tháng đầu năm). Lạm phát đã qua đỉnh và tiếp tục hạ nhiệt cho thấy các biện pháp kiểm soát đã dần phát huy tác dụng cùng với đà giảm giá và lạm phát của thế giới.
Các cân đối lớn được đảm bảo, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định: lãi suất huy động giảm khoảng 0,5-1,5% so với đầu năm, chủ yếu với các kỳ hạn trên 6 tháng khi thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện và nhu cầu tín dụng còn thấp (tín dụng hết quý 1 chỉ tăng 2,06%, thấp hơn nhiều mức tăng gần 6% cùng kỳ năm trước). Lãi suất cho vay cũng đang giảm (khoảng 1-2%) từ đầu năm khi nhiều TCTD tung ra các gói tín dụng ưu đãi. Mặc dù vậy, lãi suất vẫn còn ở mức cao và các TCTD vẫn phải duy trì điều kiện cho vay thận trọng khi điều kiện kinh doanh khó khăn, tiềm ẩn nợ xấu.
Trong quý I, tỷ giá ghi nhận xu hướng giảm về mức tương đương hồi tháng 9/2022 (trước khi xảy ra biến động mạnh về tỷ giá và lãi suất). Hết quý 1/2023, tỷ giá liên ngân hàng giảm 0,65% và tỷ giá trung tâm giảm 0,04% so cuối năm 2022. Bốn lý do chính gồm: (i) đồng USD trên thị trường quốc tế giảm (chỉ số DXY giảm 1,33% so với cuối năm 2022); (ii) nhu cầu thanh toán ngoại tệ ở mức thấp khi hoạt động nhập khẩu giảm (-14,7%) so với cùng kỳ năm trước, thặng dư thương mại ở mức 4,1 tỷ USD; (iii) du lịch quốc tế phục hồi; và (iv) dự trữ ngoại hối tăng lên khi NHNN tiếp tục mua vào USD.
Giải ngân đầu tư công được thúc đẩy và cải thiện rõ nét. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN trong quý 1 ước đạt 91,5 nghìn tỷ đồng, bằng 13,4% kế hoạch năm và tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 12,9% kế hoạch năm và tăng 12,3%). Trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức; kết quả giải ngân vốn đầu tư công như vậy là điểm sáng tích cực, là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm 2023.
Thu ngân sách duy trì xu hướng tích cực : thu NSNN quý 1 đạt 491,5 nghìn tỷ đồng, bằng 30,3% dự toán năm, tăng 1,3% so với cùng kỳ 2022. Chi NSNN quý 1 đạt 363,4 nghìn tỷ đồng, bằng 17,5% dự toán năm, tăng 7,2% so với cùng kỳ 2022. Theo đó, NSNN thặng dư 128,1 nghìn tỷ đồng, chủ yếu là do thu ngân sách tăng nhẹ trong khi tỷ lệ chi đầu tư phát triển vẫn ở mức thấp so với mục tiêu kế hoạch. Điều này tạo thêm dư địa chính sách tài khóa trong việc cung ứng các gói hỗ trợ, giãn hoãn thuế, phí cho người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, thu ngân sách có thể khó khăn hơn trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn.
Theo công bố của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2023 ước tính tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước.
Đây là mức giảm sâu gần nhất của cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2011-2023 (chỉ cao hơn tốc độ tăng 3,21% của quý I năm 2020), làm giảm 0,28 điểm phần trăm trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu được chỉ ra là do kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, biến động khó lường, lạm phát tại các nước mặc dù hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, đơn hàng giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm...
Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52% - đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung; khu vực dịch vụ tăng 6,79%, đóng góp 95,91%. Riêng khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4% - làm giảm 4,76%.
Đáng chú ý, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng hiện đã ngang bằng với thời điểm trước dịch Covid-19.
Một điểm nổi bật nhất trong bức tranh quý I này là lượng khách quốc tế tới Việt Nam: Đạt 2,7 triệu lượt trong quý I - gấp gần 30 lần cùng kỳ và đã tương đương 1/3 mục tiêu cả năm nay.
Dự báo, con số này sẽ tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới khi "thị trường tỷ dân" Trung Quốc đã mở cửa cho khách du lịch đi theo đoàn sang Việt Nam từ ngày 15-3. Đây là cơ hội để ngành du lịch phục hồi, nhất là với địa phương có cả đường biên trên bộ và trên biển với Trung Quốc.
Một điểm tích cực khác là CPI đã được kiểm soát ở mức phù hợp trong bối cảnh lạm phát toàn cầu đã suy giảm nhưng vẫn neo đậu ở mức rất cao: Trong quý I năm 2023, lạm phát cơ bản bình quân tăng 5,01% so với bình quân cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức CPI bình quân chung (tăng 4,18%).
Cùng với đó, đầu tư công tăng 11% thực sự là "vốn mồi" để duy trì cho vốn đầu tư toàn xã hội. Điều này sẽ tạo động lực quan trọng trước mắt và lâu dài cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
Cũng trong quý I năm 2023, trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế gặp nhiều thách thức, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh các mức lãi suất nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và duy trì tăng trưởng.
Theo đó, tính đến thời điểm 20-3-2023, tổng phương tiện thanh toán tăng 0,57% so với cuối năm 2022; huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 0,77%; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 1,61%...
Bên cạnh nhiều điểm sáng của kinh tế Việt Nam trong quý 1/2023 thì bà Nguyễn Thị Hương Tổng cục trưởng Tổng cục Thống cũng chỉ ra những thách thức, khó khăn lớn của nền kinh tế. Đó là sự sụt giảm của ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo đối với các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu. Còn mặt hàng phục vụ cho tiêu dùng trong nước thì vẫn sản xuất và tiêu dùng tốt.
Hoạt động về đăng ký doanh nghiệp làm cho bức tranh doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn khi cả đầu vào và đầu ra đều bị tác động. Ngoài ra, chính sách tài chính, tiền tệ thắt của các nước đang đe dọa đến an ninh tài chính toàn cầu - đây cũng chính là mối đe dọa khó đoán định và là thách thức rất lớn đối với nền kinh tế trong thời gian tới...
Còn theo TS. Cấn Văn Lực nhận định, Kinh tế Việt Nam trong năm 2023 vẫn đối mặt với 7 rủi ro, thách thức chính.
Một là, rủi ro, thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu: có thể nhận thấy 4 rủi ro, thách thức chính từ bên ngoài: (i) xung đột địa chính trị kéo dài và gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; (ii) sự đổ vỡ của một số ngân hàng tại Mỹ, Thụy Sỹ làm tăng rủi ro thị trường tài chính - ngân hàng toàn cầu, rủi ro nợ xấu và vỡ nợ trên thế giới gia tăng, ngân hàng trở nên thận trọng hơn, cho vay ít đi trong khi cầu tín dụng toàn cầu thấp, làm chậm đà phục hồi kinh tế; (iii) rủi ro an ninh năng lượng, lương thực vẫn hiện hữu; (iv) giá cả, lạm phát toàn cầu còn ở mức cao, rủi ro tài chính tăng khiến tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu mong manh, thậm chí suy thoái nhẹ xảy ra. Những rủi ro, thách thức này còn tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng, du lịch quốc tế và thị trường tài chính - tiền tệ của Việt Nam.
Hai là, GDP quý 1 tăng trưởng thấp khi ước đạt 3,32%, chỉ cao hơn mức 3,21% của quý 1/2020 (khi dịch Covid-19 bùng phát), còn lại thấp hơn quý 1 trong vòng 12 năm qua, thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ đã đề ra cho quý 1/2023 tại Nghị quyết 01 (5,6%). Tuy mức tăng trưởng 3,32% không phải là mức cao, song là mức đáng ghi nhận, trong bối cảnh kinh tế thế giới không thuận lợi, nhiều nước tăng trưởng rất thấp, thậm chí suy thoái nhẹ. Điều này cho thấy đạt được mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023 sẽ là thách thức rất lớn, đòi hỏi nỗ lực, quyết tâm cao từ Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương cùng sự đồng lòng, quyết tâm của người dân và doanh nghiệp.
Ba là, xuất nhập khẩu giảm mạnh và chịu tác động tiêu cực rõ nét hơn: trong quý 1, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 154,3 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7%. Nguyên nhân xuất khẩu giảm chủ yếu là do: (i) nhu cầu thế giới, nhất là các thị trường, đối tác chính của Việt Nam giảm mạnh (do lạm phát và lãi suất còn cao, kinh tế thế giới dự báo suy thoái nhẹ, hành vi tiêu dùng của người dân thay đổi và hàng tồn kho nhiều); (ii) giá các mặt hàng xuất khẩu cũng giảm (chỉ số giá xuất khẩu trong quý 1 giảm 0,34%). Điểm tích cực là cán cân thương mại thặng dư 4,1 tỷ USD, góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối. Giá hàng hóa thế giới đang giảm song việc tỷ giá thương mại vẫn tăng (tăng 1,3% so với quý trước và 3,1% so với cùng kỳ năm trước) góp phần làm tăng thặng dư thương mại.
Bốn là, thu hút và giải ngân FDI giảm: tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 5,45 tỷ USD, giảm 38,8 % so với cùng kỳ, chủ yếu là do kinh tế toàn cầu khó khăn hơn, bất ổn gia tăng, nhà đầu tư thận trọng hơn. Giải ngân vốn FDI đạt 4,32 tỷ USD, giảm nhẹ 2,2% so với cùng kỳ, do tâm lý thận trọng của các nhà đầu tư cũng như một số quy trình, thủ tục trong nước còn vướng mắc.
Năm là, một số cấu phần của Chương trình phục hồi, 3 chương trình mục tiêu quốc gia còn chậm, dù đã có cải thiện: sau hơn một năm ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Nghị quyết 11/NQ-CP nhằm triển khai Chương trình phục hồi 2022-2023, nhìn chung các cấu phần triển khai còn chậm. Theo Bộ KHĐT, tính đến tháng 1/2023, các bộ ngành, địa phương đã giải ngân khoảng 80,8 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 23,2% tổng quy mô Chương trình). Nguyên nhân chính là do: (i) một số bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức, còn ngại rủi ro, còn cứng nhắc…v.v; (ii) các TCTD gặp khó khăn trong xác định đối tượng được hỗ trợ lãi suất đối với một số trường hợp khách hàng kinh doanh đa ngành; việc đánh giá khả năng phục hồi còn khó khăn, thiếu nhất quán; cả TCTD và khách hàng có tâm lý sợ thanh, kiểm tra sau khi giải ngân…v.v. Chính phủ đã chỉ đạo đề xuất điều chỉnh cấu phần này cho phù hợp, khả thi hơn.
Sáu là, doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn và ngày càng rõ nét hơn: trong quý 1, hoạt động của doanh nghiệp tiếp tục khó khăn chủ yếu là do thị trường xuất khẩu thu hẹp, đơn hàng giảm, vướng mắc về pháp lý, vốn trái phiếu doanh nghiệp, nợ đọng lẫn nhau (nhất là lĩnh vực dệt may, da giày, điện tử, điện thoại, đồ gỗ, BĐS, xây dựng,….). Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới quý 1 giảm 2%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giảm 10%; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 20,1% so với cùng kỳ. Tổng hợp lại, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (60 nghìn) nhiều hơn số doanh nghiệp gia nhập thị trường (57 nghìn).
Bảy là, nợ xấu gia tăng dù cơ bản trong tiên lượng và tầm kiểm soát: theo NHNN, hiện nay tỷ lệ nợ xấu hệ thống ngân hàng vẫn trong tầm kiểm soát với nợ xấu nội bảng khoảng 2% và nợ xấu gộp 3,5%. Tuy nhiên, kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, mặt bằng lãi suất còn cao, nghĩa vụ trả nợ (gồm cả tín dụng và TPDN đáo hạn) khá lớn, doanh nghiệp ở một số lĩnh vực gặp khó khăn. Dự báo, nợ xấu có thể còn tăng trong năm 2023 khi hoạt động của doanh nghiệp, người vay tiêu dùng còn khó khăn, đặc biệt thị trường TPDN, xây dựng và bất động sản cần thời gian để hồi phục.
Tiến Hoàng