Chuyên gia kinh tế vạch trần những 'thủ thuật' giúp các ngân hàng sở hữu chéo
Theo vị chuyên gia, sự phát triển các công cụ tài chính đã tạo điều kiện cho sở hữu chéo ngân hàng ngày càng tinh vi hơn, không chỉ cho vay trực tiếp mà còn sử dụng các công cụ để tài trợ lẫn nhau nhằm mục đích chi phối ngân hàng đó của giới chủ.
Thị trường tài chính phát triển, sở hữu chéo ngày càng tinh vi
Vấn đề sở hữu chéo ngân hàng tồn tại trên hệ thống tài chính Việt Nam từ năm 1997, khi Luật Các Tổ chức tín dụng ra đời có điều khoản cho phép ngân hàng sở hữu một tổ chức tài chính.
Phát biểu tại Talk show Bản chất sở hữu chéo: Ngân hàng trong tay "trùm"? diễn ra mới đây, TS. Lê Đạt Chí, Đại học Kinh tế TP HCM cho rằng, sở hữu chéo đang là vấn đề đáng lo ngại trên thị trường tài chính khi các công ty con liên quan đến các thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) đi vay tại ngân hàng.
"Vấn đề này không mới và cũng xuất hiện ở các quốc gia khác với tên gọi "insider lending" nhưng đối với Việt Nam thì việc quản lý còn khá lỏng lẻo", ông Chí nói.
Theo chuyên gia, nguyên nhân khiến vấn đề sở hữu chéo ngày càng khó phát hiện và quản lý một phần là do sự phát triển của thị trường tài chính với những định chế mới, phức tạp hơn. Ở thị trường ở thời kỳ sơ cấp 10 năm trước, các cá nhân, doanh nghiệp đi vay trực tiếp thông qua việc cầm cố tài sản, sau đó chuyển sang cho vay bằng cầm cố cổ phần và đến nay là trái phiếu doanh nghiệp.
"Những năm gần đây, khi thị trường trái phiếu nở rộ thị trường tài chính xuất hiện câu chuyện mua trái phiếu doanh nghiệp có tài sản đảm bảo là chính cổ phiếu của ngân hàng, do đó các vấn đề sở hữu chéo đã phát triển đến một mức độ tinh vi", ông Chí nói.
Các công cụ này khiến sở hữu chéo không phải chỉ đơn giản là ngân hàng này sở hữu cổ phần của ngân hàng khác như thời kỳ trước năm 1997 khi Luật Các tổ chức tín dụng ra đời mà đến nay, có cả một hệ sinh thái đằng sau và sử dụng mọi công cụ từ phần vốn góp cổ phần là tài sản trong các ngân hàng cho đến chính cổ phần của cổ đông cũng được mang đi thế chấp.
Đây cũng là lý do thị trường trái phiếu doanh nghiệp thời gian qua phát triển rất mạnh mẽ nhưng chủ yếu là chào bán riêng lẻ cho một vài nhà đầu tư lớn. Đồng thời, trên báo cáo tài chính của một số ngân hàng cũng cho thấy sự gia tăng tín dụng thông qua việc mua trái phiếu.
Điều này cho thấy sự phát triển các công cụ tài chính đã tạo điều kiện cho sở hữu chéo ngày càng tinh vi hơn, không chỉ cho vay trực tiếp mà còn sử dụng các công cụ để tài trợ lẫn nhau nhằm mục đích chi phối ngân hàng đó.
Để hạn chế tình trạng này, mới đây Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã trình dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi, trong đó cũng đề cập đến việc quản lý sở hữu chéo tại các ngân hàng.
Tuy nhiên, kể cả khi áp dụng những quy định dự thảo Luật các TCTD sửa đổi, vẫn khó có thể xử lý triệt để vấn đề này khi có rất nhiều chiêu trò, biến tướng. Đơn cử như việc việc giảm tỷ lệ sở hữu của các ông chủ ngân hàng, họ có thể sẽ lách luật bằng cách tạo ra các doanh nghiệp đằng sau đó và biến tài sản góp vốn để đi vay có đảm bảo trên thị trường tài chính.
Cùng với sự phát triển các công cụ tài chính trên thị trường đòi hỏi phải có sự giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước chặt chẽ hơn. Các doanh nghiệp "sân sau" rất khó để điều tra và kiểm soát nên điều khoản trong Luật Các Tổ chức tín dụng về việc giới hạn cho vay các công ty liên kết của "ông chủ" ngân hàng cũng không có nhiều tác dụng, TS. Chí nhìn nhận.
Sau nhiều lần sửa đổi, Dự thảo Luật Các Tổ chức tín dụng (sửa đổi) có đề cập đến việc giảm tỷ lệ sở hữu đã được trình lên Quốc hội xem xét vào kỳ họp 2023 vừa qua. "Lần sửa này nếu thông qua việc có chấm dứt được sở hữu chéo hay không vẫn là câu hỏi", ông Lê Đạt Chí nói.
Đề xuất cơ quan quản lý cần thiết lập nên hệ thống kiểm soát trong ngân hàng
Đồng quan điểm, GS.TS Trần Ngọc Thơ - Đại học Kinh tế TPHCM cho rằng, hơn một thập kỷ qua, nước ta vẫn chưa giải quyết xong vấn đề sở hữu chéo trong ngân hàng. Theo ông Thơ, bản chất của sở hữu chéo tại Việt Nam khác với khái niệm này ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, một vài ông chủ đứng đằng sau và thâu tóm, nắm quyền kiểm soát, lũng đoạn nhà băng để cho vay thân hữu, chủ yếu là tập trung vào bất động sản.
"Rõ ràng việc cho vay trong nội bộ hay trong hệ sinh thái hoàn toàn làm tăng vốn ảo, không có lợi cho nền kinh tế, đặc biệt là đẩy giá bất động sản, đẩy bong bóng tài sản cố định trong nền kinh tế lên cao, tạo ra một khả năng tiềm ẩn trong báo cáo tài chính", ông Thơ nói.
"Với pháp luật các nước đơn giản là họ sẽ trừ hết tất cả khoản vốn ảo, các khoản vốn mà các cơ quan quản lý phát hiện nằm trong hệ sinh thái. Đây là cách thức xử lý tôi cho rằng khá hữu hiệu, có thể là một bài học kinh nghiệm để chúng ta xử lý triệt để sở hữu chéo trong thời gian tới", ông Thơ đưa ra quan điểm. Ngoài ra, việc sở hữu chéo rất khó phát hiện.
TS Lê Đạt Chí cho rằng, trong điều khoản của Luật Các Tổ chức tín dụng có quy định giới hạn cho vay các công ty liên kết với ông chủ ngân hàng. Tuy nhiên, để Ngân hàng Nhà nước giám sát và thực thi điều khoản giới hạn cho vay trong một nhóm các công ty liên kết gần như rất khó. Việc này càng khó khi các công ty này được lập nên không có phả hệ mà luật pháp quy định, ví dụ con rể, con dâu, em vợ, em chồng…
Ông Chí đưa ra ví dụ, qua mùa mỗi mùa họp đại hội cổ đông, việc công bố danh sách cổ đông có quyền dự họp dễ dàng thấy có vài trăm doanh nghiệp đang là cổ đông trong ngân hàng.
Theo chuyên gia, các "ông lớn" chia nhỏ sở hữu ra để né đi các quy định về giới hạn sở hữu của Luật quy định, né đi vấn đề công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
"Việc chia nhỏ sở hữu này giúp ông chủ kiểm soát được ngân hàng, nhưng cũng đồng thời lợi dụng được phần vốn góp cổ phần này để vay vốn, kinh doanh khi quyền sở hữu này chưa dùng đến", ông cho hay.
Ông đề xuất cơ quan quản lý cần thiết lập nên hệ thống kiểm soát trong ngân hàng, tức phải nắm được ngân hàng cấp tín dụng hay quyết định một khoản đầu tư trái phiếu cho một doanh nghiệp nào đó.
Ngoài ra, ông cũng cho rằng Luật Các Tổ chức tín dụng cũng cần phải thiết lập các tiêu chuẩn đề cử, thay đổi lại hành vi này giúp việc bầu cử các thành viên HĐQT trong ngân hàng thực sự là người có chuyên môn và đại diện cho cổ đông đại chúng, thay vì một nhóm sở hữu ngân hàng.
Hồng Quang