Những bất cập kéo dài dẫn đến sự "méo mó" thị trường vàng
Thị trường vàng Việt Nam nhiều năm qua luôn tồn tại nghịch lý: Nhu cầu lớn, thanh khoản cao, song nguồn cung chính ngạch lại hạn chế, cơ chế quản lý thiếu linh hoạt, dẫn đến tình trạng giá vàng trong nước thường xuyên chênh lệch lớn so với thế giới.
Khi các rào cản nhập khẩu và cơ chế độc quyền kéo dài, thị trường dần mất cân đối, làm gia tăng chi phí xã hội, thiệt hại trực tiếp cho người dân và khó khăn cho doanh nghiệp.
Méo mó thị trường do độc quyền nhập khẩu
Từ nhiều năm, chúng ta thường nhìn vàng như một nguyên nhân gây bất ổn. Nhưng thực ra, vàng chỉ là biểu hiện - không phải nguyên nhân. Người dân nắm giữ vàng vì họ không có nhiều công cụ tiết kiệm có bảo đảm, thiếu niềm tin vào các kênh đầu tư khác và họ hiểu quy luật: tiền mất giá - vàng tăng giá.
Nếu hệ thống tài chính có thêm công cụ ổn định và hấp dẫn: Quỹ đầu tư quốc gia, trái phiếu sinh lời linh hoạt, kênh tiết kiệm hưu trí, bảo hiểm tài chính hiệu quả,… thì người dân sẽ không cần phải dựa nhiều vào vàng. Nói cách khác, vàng không gây méo mó thị trường. Chính sự thiếu đa dạng trong các công cụ tài chính mới khiến vàng trở thành lựa chọn an toàn duy nhất.
Tại Diễn đàn “Thị trường vàng Việt Nam: Thuận lợi và thách thức trong giai đoạn mới” ngày 24/11, TS. Lê Xuân Nghĩa đã đưa ra những nhận định rất thẳng thắn về nguồn gốc của sự méo mó thị trường. Ông cho biết lượng vàng nhập khẩu chính ngạch của Việt Nam mỗi năm chỉ khoảng 5 tấn - thấp hơn cả giá trị nhập khẩu mỹ phẩm hoặc bằng chỉ một phần nhỏ của thị trường sữa.

Ông nhấn mạnh: “Tiền tăng nhanh hơn vàng thì vàng phải tăng giá, đó là quy luật. Người dân hiểu điều đó nên giữ vàng là chuyện bình thường”, và vì vậy, không thể trách người dân khi họ chọn vàng là nơi trú ẩn an toàn.
Trong khi đó, cơ chế quản lý hiện nay lại đang đặt người dân vào thế bất lợi. TS. Lê Xuân Nghĩa nêu vấn đề: “Tại sao người Việt Nam phải mua vàng với giá cao hơn người Mỹ, người châu Âu, trong khi thu nhập lại thấp hơn nhiều?”.
Theo ông, sự độc quyền trong nhập khẩu vàng miếng có thể khiến thị trường bị bóp méo mạnh. Người dân phải mua vàng với giá cao, chấp nhận rủi ro lớn hơn, còn thị trường thì dần hình thành những hành vi mua bán ngoài luồng.
Ông Nghĩa nói rõ: "Cơ quan quản lý không nhập chính thức người dân buộc phải mua vàng nhập lậu, mua hàng kém chuẩn. Quản lý thị trường không thể chỉ dựa trên tư duy siết cho chặt mà bỏ qua quyền lợi người dân".
Đây là câu vấn đề phản ánh đúng thực tế tồn tại nhiều năm: khi cơ chế “khóa chặt” nguồn cung chính thức, thì nguồn cung phi chính thức sẽ tăng, và điều đó không chỉ làm méo mó thị trường, mà còn làm suy yếu năng lực quản lý.
Cơ chế cấp phép nhập khẩu vàng miếng từ năm 2010 đến nay kéo dài quá lâu và vẫn chưa hoàn thiện. Nếu để lâu, vàng nhập chính thức và vàng nhập lậu sẽ tiếp tục cạnh tranh trực diện. Người dân phải mua vàng đắt hơn so với nước ngoài, đó là điều vô lý.
Một trong những giải pháp căn cơ được TS. Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh là cần bỏ độc quyền xuất, nhập khẩu vàng miếng của ngân hàng. Mở rộng quyền nhập khẩu cho nhiều doanh nghiệp có đủ năng lực. Lập sàn vàng vật chất theo chuẩn quốc tế, công khai giá, kiểm soát buôn lậu bằng nghiệp vụ chứ không phải bằng siết cung.
Quản lý thế nào để vừa mở cửa mà không gây sốc thị trường?
Ông Đặng Văn Đức, Phó Chi cục trưởng Chi cục Điều tra chống buôn lậu (Cục Hải quan Việt Nam), phân tích rõ vì sao vàng là mặt hàng “ưa thích” của đường dây buôn lậu. Giá trị cao, dễ cất giữ, dễ thanh khoản, lại không bị mất giá mạnh trong khủng hoảng khiến hoạt động nhập lậu vàng luôn có động lực.
Điều kiện biên giới trải dài 4.000km với nhiều điểm không kiểm soát cố định càng tạo lỗ hổng. Mỗi khi thị trường trong nước chênh 10 - 15 triệu đồng/lượng so với thế giới, biên lợi nhuận cho buôn lậu là cực lớn. Vì thế, có thể coi thị trường vàng Việt Nam như một chiếc lò xo bị nén: càng siết cung chính ngạch, càng tạo áp lực cho luồng hàng lậu.
Trong khi đó, thị trường vàng không chỉ là một phân khúc giao dịch tài sản bình thường mà còn có tác động sâu đến kinh tế vĩ mô. Ông Kiều Đình Cảnh, Phó Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội, nhận định: "Những hành vi này vừa gây thiệt hại cho người tiêu dùng, vừa tạo nguy cơ rủi ro đối với nền kinh tế".

Sự ra đời của Nghị định 232/2025/NĐ-CP được xem là bước ngoặt pháp lý cho thị trường. Nghị định này tách vai trò quản lý nhà nước khỏi hoạt động kinh doanh, tạo nền tảng cho một thị trường hiện đại hơn. Tuy nhiên, như ông Kiều Đình Cảnh cảnh báo, khi thị trường chuyển đổi từ cơ chế “siết chặt” sang “thả dần”, sẽ xuất hiện các cơn sóng tâm lý và hành vi đầu cơ ngắn hạn.
Thực tế, nhiều hành vi vi phạm đã xuất hiện phổ biến tại các cửa hàng: gian lận tuổi vàng, mua bán không chứng từ, đầu cơ găm hàng,.. Đây là biểu hiện của một thị trường thiếu minh bạch, thiếu cạnh tranh lành mạnh, và thiếu cơ chế kiểm soát bằng dữ liệu.
Ông Vũ Hùng Sơn, Tổng Thư ký Hiệp hội Kinh doanh Vàng Việt Nam, cho biết: suốt 13 năm qua, doanh nghiệp kinh doanh vàng phải sử dụng nguồn “trôi nổi”, không tiếp cận được nguồn chính thức, từ đó giá vàng trong nước luôn bị đẩy cao một cách bất hợp lý.
Vấn đề đặt ra là: quản lý thế nào để vừa mở cửa mà không gây sốc thị trường? Nếu không thay đổi cơ chế nhập khẩu, không cải cách phương thức quản lý, không chuyển quyền tham gia thị trường từ độc quyền sang cạnh tranh mở thì những nghịch lý sẽ tiếp tục kéo dài.
Người dân sẽ vẫn phải mua vàng đắt hơn thế giới, vàng nhập lậu vẫn tồn tại, các chi phí ngầm của xã hội tiếp tục tăng, thị trường tài chính thiếu minh bạch. Trong bối cảnh tái cấu trúc, điều quan trọng nhất là: giữ mục tiêu chính - bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân và tạo môi trường cạnh tranh minh bạch cho doanh nghiệp.
Bảo Thoa
