Khoảng 50% doanh nghiệp dệt may đã thực hiện 'xanh hóa' sản xuất
Nếu như cách đây vài năm, cụm từ "xanh hoá" được nhắc đến như một xu hướng sản xuất mới thì nay đã trở thành một yêu cầu bắt buộc với ngành dệt may. Chính sự thay đổi này đã tạo nên bước phát triển cho ngành dệt may - một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam.
Cơ bản sản xuất xanh là sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường, tăng cường tái chế, hạn chế ô nhiễm và chất thải trong các quy trình sản xuất Khi doanh nghiệp chuyển đổi sang sản xuất xanh họ sẽ được hưởng lợi nhất định. Chẳng hạn như trong ngành dệt may, khi các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu tự nhiên sẽ được ưu tiên xuất khẩu vào những thị trường lớn, được ký các hợp đồng dài hạn với giá trị lớn hơn.
Các doanh nghiệp dệt may đua nhau "xanh hóa" trong sản xuất
“Xanh hoá sản xuất” là cụm từ được nhắc đến nhiều tại các diễn đàn, hội nghị, hội thảo của ngành dệt may. Như lời ông Vũ Đức Giang- Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, xanh hoá không còn là xu hướng mà đã hiện hữu và được các doanh nghiệp dệt may đón nhận và đầu tư thích đáng. “Khoảng 50% doanh nghiệp dệt may đã “xanh hoá sản xuất” mới có thể có đơn hàng trong bối cảnh thị trường khó khăn, cạnh tranh khốc liệt như hiện nay”, lãnh đạo Hiệp hội Dệt may Việt Nam nói.
Công ty Dệt may Trung Quy được biết tới với độ chịu chi khi đầu tư hơn 270 tỷ đồng vào nhà xưởng 10.000 m2 tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nhờ đó có thể tiến đến quy trình sản xuất xanh một cách nhanh chóng. Ở khâu nhuộm, dệt, doanh nghiệp có thể tiết kiệm 60 - 70% lượng nước so với công nghệ cũ, không chỉ giúp khép kín quy trình sản xuất, mà còn cung ứng kịp thời nguồn vải chất lượng, chuẩn quốc tế cho doanh nghiệp may mặc trong nước, với năng suất 2 triệu mét vải/năm.
Đặc biệt, doanh nghiệp đã xuất khẩu 2 container vải có nguồn gốc sợi hữu cơ, là lô hàng đầu tiên sau khi công ty chuyển sang mô hình sản xuất xanh từ cuối năm 2022. Đây là trái ngọt cho những nỗ lực của Trung Quy trong tiến trình bắt nhịp xanh hoá sản xuất.
Được đầu tư hàng trăm tỉ đồng, những chiếc máy nhuộm tại Khu công nghiệp Bảo Minh, Nam Định sử dụng công nghệ tạo nhiệt hoàn toàn từ khí tự nhiên hoá lỏng (LNG), giảm 50 tấn than đốt lò hơi mỗi ngày. 10% nước thải từ quá trình dệt nhuộm cũng được xử lý để tái sử dụng.
"Mục tiêu của chúng tôi từ nay đến 2025 sẽ tái tuần hoàn được 50% lượng nước thải. Nước sau khi xử lý sẽ đáp ứng đủ điều kiện cho sinh hoạt, gia đình", ông Nguyễn Văn Kiểm - Tổng Giám đốc Khu công nghiệp Bảo Minh, Nam Định cho hay.
Hay với Công ty cổ phần Dệt Trần Hiệp Thành, xanh hoá của doanh nghiệp thể hiện bằng cam kết giảm phát thải CO2. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp liệt kê các nguồn phát thải như lò hơi, gas, thiết bị dùng điện… và tiến hành cắt giảm việc sử dụng than đá, thay bằng vỏ cây và kiểm soát năng lượng…
Lộ trình giảm phát thải CO2 đòi hỏi doanh nghiệp đầu tư thay đổi máy móc, thiết bị, tìm nguồn nguyên liệu mang tính tự nhiên hơn. Tuy nhiên, cũng nhờ vậy mà với cơ cấu giám sát chi phí, Trần Hiệp Thành đã thành công trong việc sử dụng 80% nhiên liệu xanh hóa và sử dụng 30 - 35% nguyên liệu tái chế được.
Xanh hoá sản xuất trong ngành dệt may khá đa dạng và được doanh nghiệp chuyển đổi phù hợp với bối cảnh riêng, như: Chuyển đổi sang hệ thống điện năng lượng mặt trời áp mái; thay thế lò hơi đốt than, đốt dầu bằng lò hơi điện, lò hơi sử dụng nguyên liệu từ tự nhiên…
Xanh hóa trong sản xuất là xu thế phát triển bền vững
Đầu tư vào sản xuất xanh là hướng đi mà các quốc gia lựa chọn, để vươn lên trên bản đồ xuất khẩu dệt may thế giới. Từng khâu chủ động xanh hoá sẽ khiến vòng sản xuất xanh trong ngành dệt may dần khép kín. Để những chiếc áo tiếp tục có tấm vé thông hành xanh trên các kệ hàng.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) Trương Văn Cẩm cho biết, các quy chuẩn và đánh giá sự phát triển bền vững của doanh nghiệp ngày càng cao dựa trên mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp về trách nhiệm đối với người lao động, môi trường, xã hội và người tiêu dùng toàn cầu trước khi các sản phẩm được đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Tuy nhiên, các quy chuẩn này sẽ không cố định mà liên tục thay đổi, đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt thích ứng.
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới Việt Nam ký đều có các quy tắc, cam kết về bảo vệ môi trường và phát thải thấp. "Xanh hóa" ngành dệt may là xu thế toàn cầu chứ không chỉ riêng tại Việt Nam. Điều này bắt buộc doanh nghiệp phải triển khai bằng việc đầu tư công nghệ sản xuất, tự động hóa, xây dựng môi trường làm việc an toàn cho người lao động, giúp tăng tính cạnh tranh đối với khách hàng và người tiêu dùng.
Chiến lược phát triển ngành dệt may, da giày Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2035 đã cho thấy sự chuẩn bị kỹ càng cho sự phát triển dài hạn của ngành dệt may, da giày Việt Nam. Chiến lược phát triển đã đề ra mục tiêu đẩy mạnh phát triển chuỗi giá trị và phát triển thị trường, ngoài việc đáp ứng yêu cầu của các nhãn hàng, việc sử dụng nguồn nguyên liệu ít sử dụng carbon hơn, nguyên liệu sạch… cũng hết sức quan trọng. Điều này cho thấy khát vọng hướng tới sự phát triển mạnh mẽ và bền vững cho ngành dệt may, da giày Việt Nam trong giai đoạn mới./
Dương Định (T/H)