Đề xuất sửa đổi quy định về giá đất, hỗ trợ tái định cư, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai, Bộ NNMT đề xuất quy định mới về giá đất, hỗ trợ tái định cư, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...
![]()
Tại tờ trình về việc ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai đang được Bộ Tư pháp thẩm định có đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 88/2024/NĐ-CP, trong đó có quy định về giá đất, tiền thuê đất...
Sửa đổi, bổ sung quy định về giá đất tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
Theo đó, dự thảo sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định tại Điều 3, trong đó sửa đổi, bổ sung điểm g khoản 1 về nội dung phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư gồm: Tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chi phí khác; bổ sung nội dung về việc bố trí tạm cư, thời gian và kinh phí tạm cư (nếu có) trong phương án chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định tại khoản 2.
Theo Bộ NNMT, để không trùng lặp, thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 94 của Luật Đất đai năm 2024 và giải quyết các trường hợp được bố trí tạm cư khi thu hồi đất thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, dự án đầu tư công khẩn cấp theo pháp luật về đầu tư công theo quy định tại Nghị quyết số 254/2025/QH15.
Đồng thời, Bộ NNMT đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 4 Nghị định số 88/2024/NĐ-CP theo hướng: Giá đất tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi theo loại đất khác được bồi thường tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Nguyên nhân được cơ quan soạn thảo đưa ra là: Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật Đất đai năm 2014 thì người có đất thu hồi nếu có nhu cầu và địa phương có điều kiện về quỹ đất, quỹ nhà ở thì được xem xét bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất thu hồi.
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 4 Nghị định 88/2024/NĐ-CP mới chỉ quy định giá đất tính tiền sử dụng chưa có quy định giá đất khi tính tiền thuê đất đối với trường hợp được bồi thường bằng loại đất phải thuê theo quy định tại Điều 120 của Luật Đất đai năm 2024.
Bên cạnh đó, để bảo đảm thống nhất về giá đất tính tiền bồi thường quy định tại khoản 6 Điều 3 Nghị quyết số 254/2025/QH15, cơ quan soạn thảo đề xuất sửa đổi khoản 7 Điều 13 theo hướng: Bổ sung quy định giá đất tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại công thức để xác định số tiền được bồi thường đối với trường hợp người đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở thuộc đất sử dụng có thời hạn mà được bồi thường bằng tiền.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có vi phạm pháp luật về đất đai trước 1/7/2014 mà đã sử dụng đất ổn định được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5 Dự thảo theo hướng:
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có vi phạm pháp luật về đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà đã sử dụng đất ổn định, thuộc các trường hợp đáp ứng các điều kiện được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1, điểm a và điểm c khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 139 của Luật Đất đai, trừ điều kiện phù hợp với quy hoạch để thu hồi đất quy định tại Điều 78, Điều 79 Luật Đất đai và Điều 3 Nghị quyết số 254/2025/QH15.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, theo quy định tại khoản 1, điểm a và điểm c khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 139 của Luật Đất đai thì trường hợp đất do hộ gia đình đang sử dụng mà phù hợp với quy định thì được cấp giấy chứng nhận.
Tuy nhiên, khi thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư thì đất đó lại không được xem xét cấp giấy do không phù hợp với quy định đã được phê duyệt cho dự án dẫn đến nhiều địa phương lúng túng trong việc xác định sự phù hợp với quy hoạch nào để thực hiện bồi thường cho người sử dụng đất.
Do đó, cần sửa đổi, bổ sung loại trừ điều kiện phù hợp với quy hoạch để thu hồi đất thực hiện dự án quy định tại Điều 78, Điều 79 Luật Đất đai và Điều 3 Nghị quyết số 254/2025/QH15 nhằm bảo đảm công bằng như đối với trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quy định cụ thể trường hợp nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật sau thời điểm có thông báo thu hồi đất
Bộ NNMT cũng đề suất bổ sung Điều 5a vào sau Điều 5, quy định cụ thể trường hợp nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật sau thời điểm có thông báo thu hồi đất thì người nhận chuyển nhượng, tặng cho, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất được bồi thường về đất và được hỗ trợ nhưng các khoản hỗ trợ, tiền hỗ trợ được nhận không vượt quá các khoản hỗ trợ, tiền hỗ trợ áp dụng đối với người chuyển quyền sử dụng đất.
Cơ quan soạn thảo lý giải nguyên nhân cần bổ sung là do:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 45 và điểm đ khoản 1 Điều 151 Luật Đất đai thì trường hợp đã có thông báo thu hồi đất thì người sử dụng đất vẫn được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất.
Để tránh việc lợi dụng chính sách để được hưởng tiền bồi thường, hỗ trợ thì cần quy định mức tối đa bồi thường, hỗ trợ cho người nhận chuyển quyền như trường hợp Nhà nước thu hồi đất của người đã chuyền quyền sử dụng đất.
Hình thức, thời gian, mức hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo 02 phương án
Sửa đổi, bổ sung Điều 19 về hình thức hỗ trợ, mức hỗ trợ và thời gian hỗ trợ ổn định đời sống theo 02 phương án:
- Phương án 1: Giữ nguyên như Điều 19 nghị định 88/2024/NĐ-CP và sửa đổi điểm d khoản 1 Điều này (được bổ sung tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 226/2025/NĐ-CP)
Lý do: Để tháo gỡ vướng mắc về việc xác định số nhận khẩu được hỗ trợ ổn định đời sống đối với trường hợp đang đồng quyền sử dụng đất nhưng không sống phụ thuộc vào đất nông nghiệp bị thu hồi.
- Phương án 2: giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tế tại địa phương quy định hình thức hỗ trợ, mức hỗ trợ và thời gian hỗ trợ ổn định đời sống
Theo Bộ NNMT, quy định như phương án này để đảm bảo linh hoạt trong việc áp dụng cũng như phù hợp với tình hình thực tế tại các địa phương./.
