Cuộc đua lãi suất cuối năm nóng lên, nhiều ngân hàng vượt 7%/năm
Lãi suất huy động tiếp tục nóng lên khi 18 ngân hàng đồng loạt điều chỉnh tăng trong tháng 12, có nơi chạm ngưỡng 7,5%/năm. Mặt bằng lãi suất cao nhất trên thị trường hiện dao động 6,5–9%/năm, khiến người gửi tiền đứng trước nhiều lựa chọn và đắn đo.
Loạt ngân hàng tăng lãi suất, có nơi chạm 7,5%/năm
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 18 ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất, gồm: Nam A Bank, MB, BVBank, Saigonbank, NCB, Cake by VPBank, Techcombank, Bac A Bank, ACB, Sacombank, SHB, KienlongBank, PGBank, OCB, VCBNeo, BIDV, VIB và VPBank. Trong số này, NCB, VPBank, Techcombank và Cake by VPBank đã hai lần tăng lãi suất.
Đáng chú ý, Cake by VPBank vừa nâng thêm 0,2%/năm lãi suất các kỳ hạn 6, 7 và 12 tháng, đưa mức lãi suất lên 6,9%/năm – cao nhất thị trường hiện nay. Ngân hàng này đồng thời triển khai ưu đãi cộng thêm tối đa 0,6%/năm cho khách hàng gửi tiền lần đầu, qua đó đưa lãi suất cao nhất lên tới 7,5%/năm cho các kỳ hạn từ 6–36 tháng.

Mức lãi suất tiền gửi cao nhất trên thị trường hiện dao động trong khoảng 6,5–9%/năm, song chủ yếu áp dụng với các khoản tiền gửi lớn và điều kiện riêng biệt.
PVcomBank đang áp dụng lãi suất đặc biệt 9%/năm cho kỳ hạn 12–13 tháng khi gửi tại quầy, với điều kiện số dư tối thiểu 2.000 tỉ đồng. HDBank niêm yết 8,1%/năm cho kỳ hạn 13 tháng và 7,7%/năm cho kỳ hạn 12 tháng, yêu cầu số dư từ 500 tỉ đồng. Vikki Bank áp dụng lãi suất 8,4%/năm cho kỳ hạn từ 13 tháng trở lên, với số tiền gửi tối thiểu 999 tỉ đồng.
Bac A Bank đang niêm yết mức cao nhất 6,5%/năm cho các kỳ hạn 18–36 tháng; 6,3%/năm cho kỳ hạn 13–15 tháng; 6,2%/năm cho kỳ hạn 12 tháng; các kỳ hạn 6–8 tháng ở mức 6%/năm và 9–11 tháng là 6,05%/năm. Viet A Bank áp dụng lãi suất từ 6,0%/năm cho kỳ hạn 6 tháng đến 6,8%/năm cho kỳ hạn 18 tháng đối với sản phẩm Tiết kiệm Đắc Tài, với điều kiện gửi tối thiểu 100 triệu đồng, giao dịch tại quầy và lĩnh lãi cuối kỳ.
Đối với khoản tiền gửi trên 1 tỉ đồng tại Bac A Bank, lãi suất được nâng lên 6,4%/năm cho kỳ hạn 6–8 tháng; 6,45%/năm cho kỳ hạn 9–11 tháng; 6,5%/năm cho kỳ hạn 12 tháng; 6,6%/năm cho kỳ hạn 13–15 tháng và 6,7%/năm cho kỳ hạn 18–36 tháng. Nam A Bank áp dụng mức 6,5%/năm cho kỳ hạn 24 tháng và 6,3%/năm cho kỳ hạn 36 tháng, với số tiền gửi từ 500 tỉ đồng trở lên.
Bên cạnh các gói ưu đãi đặc biệt, nhiều ngân hàng hiện cũng công bố lãi suất trên 6%/năm cho các kỳ hạn dài mà không yêu cầu số tiền gửi tối thiểu.
Vikki Bank áp dụng 6,5%/năm cho kỳ hạn 6 tháng; 6,6–6,7%/năm cho kỳ hạn 12 và 13 tháng. Cake by VPBank duy trì mức 6,7%/năm cho các kỳ hạn từ 6–36 tháng. HDBank niêm yết 6%/năm cho kỳ hạn 15 tháng và 6,1%/năm cho kỳ hạn 18 tháng.
BVBank chi trả 6%/năm cho kỳ hạn 24 tháng khi gửi trực tuyến; 6%/năm cho kỳ hạn 49 tháng và 6,1%/năm cho kỳ hạn 60 tháng khi gửi tại quầy. Viet A Bank duy trì mức 6%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Bac A Bank niêm yết 6,5%/năm cho kỳ hạn 6–11 tháng; 6,55%/năm cho kỳ hạn 12 tháng; 6,6%/năm cho kỳ hạn 13–15 tháng và 6,7%/năm cho kỳ hạn 18–36 tháng.
VCBNeo áp dụng 6,2%/năm cho kỳ hạn 6 tháng và các kỳ hạn 12–60 tháng; PVcomBank niêm yết 6,3%/năm cho các kỳ hạn 15–36 tháng; Sacombank áp dụng 6%/năm cho kỳ hạn 18–36 tháng. Tại SHB, lãi suất kỳ hạn 15–18 tháng là 6%/năm, kỳ hạn 24 tháng đạt 6,1%/năm và kỳ hạn 36 tháng là 6,2%/năm. KienlongBank áp dụng 6,4%/năm cho kỳ hạn 6 tháng và 6,3%/năm cho kỳ hạn 7 tháng. NCB niêm yết 6,2%/năm cho kỳ hạn 6–8 tháng; 6,25%/năm cho kỳ hạn 9–11 tháng và 6,3%/năm cho các kỳ hạn 12–36 tháng. OCB áp dụng 6%/năm cho kỳ hạn 18 tháng; 6,1%/năm cho kỳ hạn 21 tháng; 6,2%/năm cho kỳ hạn 24 tháng và 6,4%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. VIB niêm yết 6,5%/năm cho kỳ hạn 12 tháng.
Thống kê các ngân hàng có lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao nhất hiện nay:


Người gửi tiền đắn đo trước “sóng” lãi suất
Chia sẻ với Báo Thanh Niên, ông Nguyễn San (khách hàng gửi tiết kiệm tại TP.HCM) cho biết hơn hai năm nay mới thấy các ngân hàng quay lại chào mời gửi tiết kiệm. Hiện ông đang gửi 1 tỉ đồng tại Vietcombank với lãi suất hơn 5%/năm và phân vân trước các đề nghị lãi suất trên 8%/năm từ một số nhà băng khác. “Nếu số tiền này không dùng trong 6 tháng tới thì tôi cũng đã chọn chuyển sang ngân hàng khác với lãi suất cao hơn. Lãi suất của Vietcombank thấp hơn các ngân hàng khác từ 1,6–2%/năm, là khoảng cách đáng để suy nghĩ”, ông San nói.
Theo ông San, không chỉ tiết kiệm, một số doanh nghiệp cũng đang chào mời trái phiếu với lãi suất rất cao. Chẳng hạn, Công ty Manatep đưa ra mức 15–15,5%/năm cho kỳ hạn 3–12 tháng; 16–16,5%/năm cho kỳ hạn 13–24 tháng và 17–17,5%/năm cho kỳ hạn 25–36 tháng. “Lãi suất trái phiếu của công ty này gấp nhiều lần lãi tiết kiệm, thấy cũng ham nhưng tôi chưa tìm hiểu công ty này như thế nào nên không dám tham gia”, ông San chia sẻ.
Áp lực thanh khoản và xu hướng tăng lãi suất
Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu nhận định, dữ liệu NHNN công bố cho thấy dư nợ tín dụng của nền kinh tế tính đến 27/11 đạt trên 18,2 triệu tỉ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024. Khả năng đến hết năm 2025, tăng trưởng tín dụng có thể đạt 18–20%, cao hơn mục tiêu 16% đặt ra đầu năm. Trong đó, dư nợ bất động sản tăng mạnh, chiếm khoảng 24% tổng dư nợ tín dụng, khiến một số ngân hàng đối mặt áp lực về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn.
“Các khoản vay bất động sản chủ yếu là trung và dài hạn, trong khi nguồn vốn huy động của ngân hàng lại ngắn hạn. Vì vậy, nhiều nhà băng buộc phải tăng huy động để đảm bảo chỉ tiêu vào cuối năm”, ông Hiếu phân tích. Ông cũng cho biết lãi suất trên thị trường liên ngân hàng gần đây đã vượt 7%/năm, gần gấp đôi so với đầu năm, cho thấy thanh khoản hệ thống không còn dồi dào như trước.
Theo ông Nguyễn Trí Hiếu, lãi suất huy động từ nay đến cuối năm và sang năm 2026 sẽ tiếp tục căng thẳng và có xu hướng tăng. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 10% trong năm 2026 đòi hỏi tăng trưởng tín dụng có thể lên tới 24%, khiến lãi suất huy động khó giảm. Điều này tạo áp lực lớn, đặc biệt với các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước, làm gia tăng chênh lệch lãi suất giữa nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần, từ đó thúc đẩy dịch chuyển tiền gửi. Bên cạnh đó, một phần dòng tiền cũng có thể chuyển sang trái phiếu doanh nghiệp khi kênh này tăng lãi suất, dù rủi ro cao hơn tiết kiệm.
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân (ĐH Kinh tế TP.HCM) cho rằng việc lãi suất tăng phản ánh sự phục hồi sức cầu của nền kinh tế và cho thấy môi trường tiền tệ đang dần quay lại sau giai đoạn nới lỏng mạnh. “Vấn đề quan trọng là tốc độ tăng có được kiểm soát, phù hợp với năng lực hấp thụ vốn của doanh nghiệp và vẫn đảm bảo ổn định vĩ mô hay không. Đến nay, biến động lãi suất vẫn nằm trong biên độ NHNN có thể điều tiết, chưa gây rủi ro hệ thống và vẫn tương thích với mục tiêu ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng”, ông Huân đánh giá.
Hà Chi
