Chính sách thuế với xăng dầu hiện tại không còn phù hợp
Theo PGS TS Nguyễn Đức Thành - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS), chính sách thuế hiện tại có thể không còn phù hợp với giá xăng dầu biến động bất thường do lạm phát, thuế tăng, giá đầu vào tăng cao...
Sáng 27/6, tại Hà Nội, Liên minh Công bằng Thuế Việt Nam (VATJ), Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) đã công bố kết quả nghiên cứu “Những đặc điểm cần lưu ý của thị trường xăng dầu Việt Nam và sự ảnh hưởng đến phúc lợi hộ gia đình”.
Thị trường xăng dầu Việt Nam có tính độc quyền bán cao
VESS nhận định, xăng dầu là một trong những mặt hàng thiết yếu đối với người tiêu dùng. Do đó, việc đánh các loại thuế đối với mặt hàng xăng dầu ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và chỉ tiêu của hộ gia đình.
Tại Việt Nam, hiện mỗi lít xăng, dầu bán ra đang phải chịu các loại thuế như: Giá trị gia tăng (10%), nhập khẩu (khoảng 10%), tiêu thụ đặc biệt (từ 8% - 10%) và bảo vệ môi trường.
Chỉ trong vòng hai tháng (12/4/2022 đến 13/6/2022), giá xăng dầu đã tăng liên tục 6 lần, vượt mức 32.000 đồng/lít (tăng gần 50% so với đầu năm 2022) và vượt đỉnh lịch sử tháng 7/2014 (26.140 đồng/lít).
Điều này đồng nghĩa với việc gánh nặng thuế đối với người tiêu dùng ngày càng gia tăng và cần phải tạo sức ép phải giảm bớt gánh nặng thuế. Tuy nhiên, thuế xăng dầu hiện đang đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách Nhà nước. Việc giảm thuế sẽ dẫn tới hao hụt không hề nhỏ, gây ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế khác.
Phát biểu tại buổi công bố, PGS TS Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm VESS cho rằng, thông qua nghiên cứu và tìm hiểu các đặc điểm chính của thị trường xăng dầu Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã có cái nhìn tổng quan về thị trường này.
Các quy định chi tiết và chặt chẽ trong Nghị định 95/2021/NĐ-CP và Nghị định 83/2014/NĐ-CP nhằm hướng tới mục đích duy trì ổn định của thị trường xăng dầu cũng như sự an toàn trong lao động và kinh doanh. Tuy nhiên, các chính sách này cũng gián tiếp gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường và các bên liên quan tham gia thị trường, với nhiều dấu vết của các nhóm lợi ích muốn duy trì vị thế thị trường.
Các quy định kiểm soát chặt chẽ cấu trúc của chuỗi cung ứng từ phân phối tới bán lẻ tạo thành hiện tượng độc quyền bán, qua đó duy trì sức mạnh vốn có của các doanh nghiệp mà do điều kiện lịch sử đã bao trùm cả chuỗi cung ứng từ phân phối tới bán lẻ.
“Điều này làm giảm sức hút gia nhập trên các phân đoạn thị trường cũng như tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng một phân đoạn hoặc trên toàn bộ thị trường. Hệ quả là thị trường xăng dầu Việt Nam có tính độc quyền bán cao, dẫn tới rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng như đã thấy trong một số diễn biến gần đây. Như vậy, mục đích chính của quản lý thị trường đã không đạt được”, báo cáo nhận định.
Việt Nam là quốc gia hiếm hoi áp trực tiếp hai khoản thuế lên xăng dầu
Theo PGS TS Nguyễn Đức Thành, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia phần lớn sử dụng các khoản thuế tương đối để áp lên mặt hàng xăng dầu. Đồng thời, là quốc gia hiếm hoi áp trực tiếp đồng thời hai khoản thuế tiêu thụ đặc biệt và bảo vệ môi trường lên mặt hàng xăng dầu.
Bên cạnh đó, cách thức tính giá cơ sở hiện nay cũng có nhiều điểm yếu khiến giá xăng dầu cơ sở không phản ánh đúng giá xăng dầu thực tế và không theo kịp sự thay đổi giá xăng dầu của thị trường quốc tế.
"Mặc dù có giá xăng dầu bán lẻ của Việt Nam ở mức tương đối thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng so với thu nhập bình quân đầu người thì mức giá này ở vị trí cao hơn so với một vài quốc gia phát triển hoặc có cùng điều kiện về kinh tế như: Mỹ, Nga, Malaysia, Indonesia" - đại diện nhóm nghiên cứu nhận xét.
"Việt Nam có thể đối mặt với lạm phát, thuế tăng, giá đầu vào tăng, khi giá xăng dầu ở mức cao do chi phí cho xăng dầu được coi là một trong các khoản chi phí đầu vào của sản xuất. Chính sách thuế hiện tại có thể không còn phù hợp với bối cảnh giá xăng dầu biến động bất thường như hiện nay” ông Thành nhấn mạnh.
Đề xuất xem xét lại cách tính thuế xăng dầu
Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề xuất hai định hướng nhằm cải cách thị trường xăng dầu tại Việt Nam là: Cần tách bạch các phân đoạn thị trường trong chuỗi cung ứng (xuất nhập khẩu, phân phối, đại lý, bán lẻ...) để tăng tính chuyên môn hóa của mỗi phân đoạn và tính cạnh tranh trong mỗi phân đoạn.
Hai là cải cách thị trường theo hướng tăng tính cạnh tranh trên tất cả các phân đoạn thị trường của toàn chuỗi cung ứng thông qua việc giảm điều kiện kinh doanh (nhằm giảm điều kiện gia nhập thị trường).
Cụ thể, cần loại bỏ quy định về khoảng cách tối thiểu của điểm bán lẻ xăng dầu của Bộ Xây dựng để tăng tính cạnh tranh cho thị trường, phân chia rõ ràng trách nhiệm về chất lượng giữa các bên tham gia trong thị trường.
Cùng với đó, quy rõ trách nhiệm về chất lượng sản phẩm cho các bên tham gia trong thị trường; sửa đổi chính sách liên quan như các quy định vận hành thị trường, chiết khấu, cho phép doanh nghiệp bán lẻ được nhập xăng dầu từ nhiều nguồn cung cấp khác nhau. Từ đó tạo nên sự cạnh tranh trong giá/chất lượng xăng dầu bán lẻ giữa các doanh nghiệp với nhau, gián tiếp mang lại lợi ích cho người tiêu dùng trong nước.
Liên quan đến thuế, nhóm nghiên cứu đề xuất thay đổi cách áp hai khoản thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường (gộp 2 loại vào 1 hoặc bỏ 1 trong 2).
Sử dụng thuế tuyệt đối khi áp lên mặt hàng xăng dầu, cụ thể là thuế tiêu thụ đặc biệt. Chẳng hạn như áp thuế 2.000 VND/lít và điều chỉnh theo tình huống cụ thể. Nếu sử dụng thuế tương đối thì nên có mức trần tuyệt đối với mỗi loại thuế (ví dụ: 3.000 VND/lít).
Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất Chính phủ và các cơ quan ban ngành liên quan cần tính đúng và tính đủ giá xăng dầu cơ sở, đảm bảo cân bằng hài hòa lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp bán lẻ và chính phủ; Xem xét nghiên cứu hình thành, xây dựng sàn giao dịch cung cấp xăng dầu trong nước để tác động đến giá xăng dầu cốt lõi trong tính giá cơ sở, cũng như giải quyết vấn đề về dự trữ xăng dầu quốc gia.
Đồng thời, làm rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện dự trữ xăng dầu quốc gia; Tạo lập một thị trường cho phép giá xăng dầu ở mức vừa phải so với thu nhập của người dân, đặc biệt hộ nghèo, có thể có tác động tích cực đến phúc lợi của hộ gia đình.
Thanh Phong (t/h)