Lý giải lý do Bộ Công thương chưa có tiêu chí hàng hóa 'made in Vietnam'
Bộ Công Thương đã đề xuất cho Chính phủ xây dựng quy định về hàng "made in Vietnam" từ năm 2018, tuy nhiên sau 5 năm, quy định này vẫn chưa được ban hành. Một lý do bất ngờ đã được đưa ra là lo ngại về việc doanh nghiệp phải chịu gánh nặng về chi phí.
Trong báo cáo gửi tới Ủy ban Thường vụ Quốc hội gần đây, Bộ Công Thương đã đề cập đến một loạt các khó khăn liên quan đến việc chưa thể ban hành quy định và điều kiện về hàng sản xuất tại Việt Nam, áp dụng cho hàng hóa trong nước.
Quy định hàng "made in Vietnam" được Bộ này đề xuất Chính phủ xây dựng từ năm 2018q. Tuy nhiên, một trong những trở ngại chính trong việc xây dựng tiêu chí xuất xứ cho hàng hóa sản xuất tại Việt Nam sau 5 năm là thiếu quy định về tiêu chí và điều kiện để các doanh nghiệp xác định và định rõ trên bao bì rằng sản phẩm là "made in Vietnam" hay "sản xuất tại Việt Nam".
Ban đầu, Bộ Công Thương đã lập báo cáo cho Chính phủ để xây dựng thông tư về "sản xuất tại Việt Nam". Tuy nhiên, sau khi thông tư này được đưa ra để thu thập ý kiến từ các bộ và ngành, đã phát sinh những chính sách vượt quyền hạn của Bộ. Do đó, Bộ Công Thương đã yêu cầu chuyển hướng và xây dựng nghị định về "sản xuất tại Việt Nam".
Vào năm 2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định 111/2021/NĐ-CP (Nghị định 111) sửa đổi và bổ sung Nghị định 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hóa. Nội dung về cách ghi nhãn hàng hóa đã được bao gồm trong Nghị định 111 này.
Điều này có nghĩa là quy định về "sản xuất tại Việt Nam" sẽ tập trung vào việc xác định các tiêu chí xuất xứ để định rõ hàng hóa sản xuất tại Việt Nam, là cơ sở để ghi nhãn xuất xứ của hàng hóa. Theo đánh giá của Bộ Công Thương, việc xây dựng văn bản về "sản xuất tại Việt Nam" ở cấp nghị định không còn cần thiết.
Vào tháng 5/2022, Chính phủ đã đồng ý cho Bộ Công Thương quay trở lại xây dựng quy định này dưới dạng thông tư thay vì nghị định. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại các khó khăn về thẩm quyền ban hành liên quan đến chức năng và nhiệm vụ của Bộ Công Thương.
Việc hoàn tất xây dựng các quy định liên quan đến hàng hóa "sản xuất tại Việt Nam" chậm trễ có nhiều nguyên do. Một trong số đó là quy định ở cấp thông tư có tính pháp lý chặt chẽ hơn so với quy định hiện tại về hàng trong nước, gây tiềm ẩn rủi ro pháp lý và có thể gây phản ứng tiêu cực từ doanh nghiệp.
Hiện nay, trong khi chưa có thông tư ban hành, các doanh nghiệp tiếp tục sử dụng nguyên tắc xác định hàng hóa sản xuất tại Việt Nam theo quy định của Nghị định 111.
Trong quá trình xây dựng quy định trong 5 năm qua, Bộ Công Thương chỉ nhận được đề nghị hướng dẫn xác định hàng hóa có thể dán nhãn "sản xuất tại Việt Nam" từ 16 doanh nghiệp.
Một nguyên nhân khác khiến việc ban hành tiêu chí hàng hóa "made in Vietnam" gặp khó khăn là lo ngại về chi phí tuân thủ đối với doanh nghiệp. Theo lý thuyết, quy định thông tư chỉ áp dụng khi doanh nghiệp muốn dán nhãn "sản xuất tại Việt Nam" trên hàng hóa của mình. Tuy nhiên, theo Nghị định 111, quy định về "xuất xứ hàng hóa" là bắt buộc trên nhãn hàng hóa. Điều này có nghĩa là tất cả hàng hóa sản xuất tại Việt Nam phải tuân thủ quy định và tiêu chí, trừ trường hợp hàng xuất xứ từ nước ngoài. Do đó, việc ban hành quy định này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến doanh nghiệp.
Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã quen thuộc với các khái niệm về xuất xứ như hàm lượng giá trị, chuyển đổi mã số, mã số HS, và có nhân lực và hệ thống sổ sách kế toán để tính toán các thông số. Tuy nhiên, quy định mới này có thể tạo ra trở ngại cho các doanh nghiệp nhỏ, cơ sở sản xuất cá thể và có thể dẫn đến chi phí tuân thủ lớn.
Đặc biệt, trong khi việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa tại Việt Nam vẫn gặp khó khăn, việc xác định nguồn gốc và xuất xứ của từng linh kiện và nguyên liệu không dễ dàng và tốn kém.
Trước tình hình khó khăn trong nền kinh tế, Bộ Công Thương cho rằng việc ban hành quy định và điều kiện mới có thể tạo ra chi phí tuân thủ đối với doanh nghiệp chưa phù hợp. Bộ này sẽ cùng Bộ Tư pháp giải quyết các vướng mắc liên quan đến thẩm quyền ban hành thông tư và xem xét việc ban hành quy định này đúng thời điểm để giảm thiểu tác động đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Bảo An