Giải cứu người mắc kẹt trong xe điện: Thách thức lớn từ pin và quy trình cách ly điện
Theo lực lượng chức năng, công tác giải cứu người mắc kẹt trong xe điện phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với xe sử dụng động cơ đốt trong, do liên quan trực tiếp đến hệ thống pin điện áp cao, kết cấu đặc thù và yêu cầu nghiêm ngặt về cách ly điện.
Theo lực lượng chức năng, công tác giải cứu người mắc kẹt trong xe điện phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với xe sử dụng động cơ đốt trong, do liên quan trực tiếp đến hệ thống pin điện áp cao, kết cấu đặc thù và yêu cầu nghiêm ngặt về cách ly điện.
Theo Thượng tá Lê Hữu Cường, đại diện Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (Bộ Công an) cho biết trên Báo Sức khoẻ và Đời sống, việc tiếp cận và đưa nạn nhân ra khỏi xe điện có nhiều điểm khác biệt căn bản so với phương tiện chạy xăng, dầu. Việc nhận diện và xử lý đúng các đặc thù này đóng vai trò then chốt, không chỉ bảo đảm an toàn cho người bị nạn mà còn cho chính lực lượng làm nhiệm vụ.
Khác với xe truyền thống, xe điện được trang bị hệ thống pin điện áp cao có khả năng tích trữ năng lượng lớn. Nếu không được xử lý đúng quy trình, pin có thể gây nguy cơ điện giật, cháy nổ hoặc phát sinh khí độc, đe dọa nghiêm trọng đến an toàn tại hiện trường. Do đó, trước khi triển khai bất kỳ biện pháp cứu nạn nào, việc cách ly hoàn toàn hệ thống điện của xe được xem là yêu cầu bắt buộc.

Quá trình cách ly điện thường bao gồm xác định chính xác vị trí pin, cáp điện áp cao và thực hiện ngắt kết nối bằng các thiết bị chuyên dụng dành riêng cho xe điện. Trong khi đó, với xe sử dụng động cơ đốt trong, mối nguy chính mà lực lượng cứu hộ phải đối mặt chủ yếu đến từ nhiên liệu và nguy cơ cháy nổ xăng dầu.
Một rủi ro đặc biệt nghiêm trọng đối với xe điện là hiện tượng “thoát nhiệt pin”. Khi pin bị hư hỏng nặng do va chạm hoặc gặp sự cố kỹ thuật, nhiệt độ có thể tăng đột ngột và mất kiểm soát, dẫn đến cháy nổ hoặc giải phóng khí độc. Điều này buộc lực lượng cứu nạn, cứu hộ phải tiếp cận hiện trường với mức độ thận trọng cao hơn, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ nghiêm ngặt.
Về mặt kết cấu, xe điện thường có bộ pin được bố trí dưới sàn, tạo nên cấu trúc khác biệt so với xe truyền thống. Cách bố trí này có thể ảnh hưởng đến độ ổn định của xe sau tai nạn và làm phức tạp quá trình cắt, tháo gỡ để giải cứu nạn nhân. Lực lượng cứu hộ vì vậy phải sử dụng kỹ thuật và công cụ chuyên dụng, phù hợp với đặc điểm kết cấu của từng dòng xe điện.
Hiện nay, nhiều mẫu xe điện được trang bị hệ thống tắt khẩn cấp, cho phép nhanh chóng ngắt kết nối pin và hệ thống truyền động. Đây được xem là yếu tố quan trọng giúp giảm thiểu rủi ro điện giật trong quá trình cứu nạn, cứu hộ nếu được kích hoạt và sử dụng đúng cách.
Do đặc thù về hệ thống điện, lực lượng cứu hộ khi xử lý sự cố liên quan đến xe điện phải trang bị các dụng cụ cách điện chuyên biệt như găng tay điện áp cao, công cụ cắt cách điện, hàng rào bảo vệ và thiết bị ngắt pin chuyên dụng. Bên cạnh đó, các hệ thống chẩn đoán hiện đại trên xe điện cũng có thể cung cấp dữ liệu về tình trạng pin và hệ thống điện, hỗ trợ lực lượng chức năng đưa ra quyết định xử lý phù hợp.
Theo Thượng tá Lê Hữu Cường, đào tạo và huấn luyện chuyên sâu là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả cứu người trong các vụ tai nạn xe điện. Các chương trình huấn luyện cần tập trung vào việc nhận diện cấu tạo xe điện, nắm rõ vị trí pin, cáp điện áp cao, quy trình tắt khẩn cấp cũng như sử dụng thành thạo các thiết bị chuyên dụng.
Bên cạnh đào tạo lý thuyết, việc tổ chức diễn tập và huấn luyện trên các tình huống mô phỏng sát thực tế được đánh giá là cần thiết, giúp lực lượng ứng cứu nâng cao kỹ năng, khả năng phối hợp và ra quyết định nhanh chóng trong điều kiện phức tạp.
Theo một số chuyên gia, trong bối cảnh xe điện ngày càng phổ biến, công tác cứu nạn, cứu hộ đối với loại phương tiện này đặt ra yêu cầu cao hơn về kiến thức, trang thiết bị và quy trình chuyên môn. Việc chủ động chuẩn bị và nâng cao năng lực cho lực lượng chức năng được xem là giải pháp quan trọng nhằm bảo đảm an toàn cho cả nạn nhân và người làm nhiệm vụ khi sự cố xảy ra.
P.T (t/h)
