Chuyên gia kiến nghị 6 nhóm giải pháp thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024
Theo Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm, để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, Chính phủ và các địa phương cần thực hiện 6 nhóm giải pháp.
Kinh tế Việt Nam năm 2023 khép lại trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục biến động nhanh, phức tạp, khó lường; khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi với các yếu tố rủi ro gia tăng trong cả kinh tế, chính trị và xã hội, tác động mạnh trên quy mô toàn cầu như: hậu quả dịch COVID-19 kéo dài; xung đột tại Ukraine chưa kết thúc lại xảy ra xung đột tại Dải Gaza với nhiều yếu tố khó đoán định; căng thẳng ở biển Đỏ ảnh hưởng đến con đường huyết mạch, chiếm 12% giá trị giao thương quốc tế; chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy cục bộ; thương mại và đầu tư sụt giảm; nợ công tăng mạnh; kinh tế thế giới phục hồi chậm và không đều.
Năm 2023 đã nổ ra những cơn "địa chấn" đối với kinh tế thế giới, từ sự sụp đổ của các ngân hàng như Thung lũng Silicon, First Republic của Mỹ và Credit Suisse của Thụy Sĩ, cùng với cuộc khủng hoảng năng lượng.
Lạm phát tại nhiều nước vẫn ở mức cao, giá lương thực và năng lượng dao động lớn khiến Ngân hàng trung ương nhiều nước phải cân nhắc giữa việc tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát và tạm dừng để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo GDP toàn cầu năm 2023 chỉ tăng 3%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm 2022; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế ước tính kinh tế thế giới tăng 2,9% năm 2023.
Tháng 12/2023, Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết thương mại hàng hóa toàn cầu năm 2023 ước giảm gần 2.000 tỷ USD, tương đương mức giảm 8% so với năm 2022.
Khó khăn tứ phía bủa vây doanh nghiệp
Năm 2023 hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp gặp vô vàn khó khăn, đơn hàng sụt giảm; tổng cầu trong nước phục hồi chậm và yếu. Xu hướng ngày càng gia tăng các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam khiến doanh nghiệp bị động và gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường xuất khẩu.
Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh và việc làm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong 11 tháng của năm 2023, chỉ có tháng 2 và tháng 8 đạt trên ngưỡng 50 điểm, các tháng còn lại chỉ số PMI đều dưới ngưỡng 50. Đặc biệt, chỉ số PMI tháng 5/2023 đã giảm xuống 45,3 điểm, phản ánh sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới, hoạt động mua hàng và việc làm suy giảm mạnh.
Mặc dù chỉ số PMI tháng 8/2023 đã tăng trở lại sau 6 tháng, nhưng chỉ ở mức 50,5 điểm, việc làm tiếp tục giảm nhẹ, tồn kho thành phẩm, chi phí sản xuất và giá sản phẩm đầu ra đều tăng. Sau khi đạt trên 50 điểm vào tháng 8, chỉ số PMI giảm nhẹ liên tiếp xuống dưới ngưỡng 50 trong tháng 9 và tháng 10, nhưng giảm sâu trong tháng 11/2023 ở mức 47,3 điểm.
Chỉ số PMI tháng 11/2023 phản ánh 3 điểm nổi bật, đó là: sản lượng giảm nhanh hơn khi số lượng đơn đặt hàng mới giảm; việc làm và hoạt động mua hàng giảm trở lại; chi phí đầu vào tăng mạnh nhất kể từ tháng 2 năm 2023.
Với 9 trong 11 tháng của năm 2023 chỉ số PMI các ngành sản xuất Việt Nam liên tục dưới ngưỡng 50 điểm cho thấy bức tranh ảm đạm trong sản xuất kinh doanh, có nguyên nhân sâu xa từ nhu cầu thế giới và trong nước suy yếu.
Trong bối cảnh chi phí đầu vào của doanh nghiệp gia tăng với mức độ mạnh nhất kể từ tháng 2/2023, doanh nghiệp có thể gặp khó khăn khi cạnh tranh về giá bán trong những tháng tới; đồng thời bước vào năm 2024, doanh nghiệp có thể phải đối mặt với tình trạng kinh doanh ảm đạm nếu tổng cầu không sớm tăng trở lại.
Cùng với suy giảm đơn hàng, không có thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh cạn kiệt nguồn vốn. Trái phiếu doanh nghiệp đến kỳ đáo hạn, vốn vay ngân hàng đến kỳ phải trả, việc hoàn thuế và dòng tiền về chậm khiến nhiều doanh nghiệp lao đao, sản xuất cầm chừng.
Trong năm 2023, cứ 10 doanh nghiệp gia nhập thì có 8 doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Đặc biệt, trong quý I/2023, lần đầu tiên xảy ra tình trạng số doanh nghiệp rút khỏi thị trường cao hơn số doanh nghiệp mới tham gia và quay trở lại thị trường.
Bên cạnh những khó khăn, thách thức về thị trường tiêu thụ và vốn, doanh nghiệp còn phải đối mặt với những bất cập trong nội tại của nền kinh tế, đó là thể chế, chính sách còn mâu thuẫn, điều kiện kinh doanh còn nhiều rào cản khó vượt.
Đặc biệt, sự chậm trễ, kém hiệu quả trong thực thi các chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp do một số bộ, cơ quan, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm, không quyết định công việc thuộc thẩm quyền đã đẩy doanh nghiệp lâm vào tình cảnh ngày càng khó khăn.
Tình trạng thiếu điện từ cuối tháng 5 đến giữa tháng 6/2023 do đợt nắng nóng đã gây thêm khó khăn và tổn thất cho doanh nghiệp. Hạn chế đầu tư vào cơ sở hạ tầng truyền tải và lưới điện trong thời gian qua là minh chứng về việc chúng ta đang gây khó cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng tới tiềm năng tăng trưởng của đất nước.
Am hiểu tình hình, Chính phủ xử lý kịp thời các vấn đề trước mắt, mới phát sinh hỗ trợ doanh nghiệp ổn định sản xuất
Trong năm 2023, Chính phủ đã luôn đồng hành, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và các hộ sản xuất kinh doanh. Ngay đầu năm, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023. Nghị quyết đề cập khá toàn diện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023.
Thực hiện kịp thời chính sách tài khóa, hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, từng bước phục hồi sản xuất
Chính phủ đã thực hiện có trọng tâm chính sách tài khóa nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường đầu ra trầm lắng, thực thi giải pháp giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí cho doanh nghiệp; gia hạn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng (thuế VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, giảm 30% tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Bên cạnh đó, ngành tài chính cũng đã khẩn trương tháo gỡ vướng mắc, tiến hành hoàn thuế VAT, giảm bớt một phần khó khăn về vốn cho doanh nghiệp.
Chính sách tiền tệ linh hoạt, đột phá, đảm bảo thanh khoản của nền kinh tế, giữ vững ổn định vĩ mô
Trước những khó khăn nội tại của nền kinh tế, trong bối cảnh thực thi chính sách tiền tệ phải đảm bảo đồng thời các mục tiêu: Kiểm soát lạm phát; hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; giảm mặt bằng lãi suất; ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối; đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Chính phủ đã thực hiện chính sách tiền tệ khác biệt, đột phá so với các nước trên thế giới. Việc giảm lãi suất điều hành có hiệu lực từ ngày 15/3/2023 khiến Việt Nam trở thành nền kinh tế đầu tiên ở Đông Nam Á nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ thanh khoản, xử lý vấn đề thiếu vốn của doanh nghiệp và phục hồi kinh tế trong bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tiếp tục tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát.
Năm 2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã 4 lần liên tiếp giảm lãi suất điều hành để hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh tiếp cận vốn. Chính sách giảm lãi suất và tăng cung tiền tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn là rất cần thiết, đúng và trúng.
Cùng với giảm lãi suất, NHNN đã cơ cấu thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn; đồng thời nới lỏng một số điều kiện cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các khoản cho vay bất động sản.
Từ năm 2022 thị trường bất động sản đã gặp nhiều khó khăn về thể chế, nguồn vốn tín dụng, trái phiếu, việc tổ chức thực thi của địa phương cần được tập trung tháo gỡ, thúc đẩy.
Trước thực trạng này, ngày 1/3/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đặc biệt là về thể chế, tổ chức thực hiện và nguồn vốn cho thị trường bất động sản.
Có thể thấy, Chính phủ đã nâng cao hiệu quả điều hành các công cụ chính sách tiền tệ, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp và hộ kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Cùng với thực hiện linh hoạt, phù hợp chính sách tài khoá và tiền tệ, ngày 21/4/2023 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 58/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, với các giải pháp xử lý trực diện tất cả những khó khăn vướng mắc, các tồn đọng trước mắt, mới phát sinh, những vấn đề ngắn hạn cũng như trung và dài hạn của doanh nghiệp trên tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Tập trung tháo gỡ các vướng mắc, rào cản về pháp lý nhằm khơi thông nguồn lực cho đầu tư, sản xuất kinh doanh; tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của nhà nước; nâng cao chất lượng và kỹ năng tay nghề của người lao động.
Giảm tối đa các hoạt động thanh tra theo quy định, giảm chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế, bảo hiểm xã hội và các hoạt động kiểm tra chuyên ngành khác nhằm loại bỏ phiền toái, nhũng nhiễu doanh nghiệp bấy lâu nay của một bộ phận các cơ quan nhà nước.
Chính phủ điều hành quyết liệt, xử lý kịp thời, phát huy tối đa các động lực tăng trưởng
Đối với kinh tế Việt Nam, thực hiện giải ngân vốn đầu tư công có ý nghĩa mang tầm chiến lược, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trong trung và dài hạn.
Ngay từ đầu năm, Chính phủ am hiểu tình hình, đánh giá cụ thể vai trò, mức độ tác động của từng động lực tăng trưởng đối với nền kinh tế. Với tinh thần đổi mới, thẳng thắn đề cập tới những tồn tại trong giải ngân vốn đầu tư công, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt, sát sao, cụ thể trong chỉ đạo giải ngân vốn đầu tư công.
Nhiều công trình, dự án trọng điểm, liên vùng, có tác động lan tỏa được đẩy nhanh tiến độ triển khai. Năm 2023, lần đầu tiên giải ngân vốn đầu tư công đạt kết quả cao nhất về quy mô với 625,3 nghìn tỷ, đạt 85,3% kế hoạch năm, tăng 21,2% so với năm trước.
Năm 2023, đầu tư công nổi lên là động lực quan trọng, đóng vai trò thúc đẩy, gánh vác và bù đắp cho các động lực tăng trưởng khác; nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nền tảng thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trong những năm tới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phản ánh sự hiệu quả trong thực thi chính sách kích cầu đầu tư nâng cao năng lực của nền kinh tế với tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài cả năm 2023 đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Vốn FDI thực hiện cả năm ước đạt 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm qua. Kết quả đăng ký mới và số vốn FDI thực hiện trong bối cảnh đầu tư toàn cầu suy giảm, cùng với đó nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu, đang định hình lại và dẫn dắt kinh tế thế giới đã đến Việt Nam tìm hiểu cơ hội và đầu tư minh chứng về niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, đầy tiềm năng, mở ra động lực tăng trưởng mới cho kinh tế Việt Nam.
Ngày 8/12/2023, Tổ chức Xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ với triển vọng "Ổn định" dựa trên cơ sở ghi nhận triển vọng tăng trưởng thuận lợi trong trung hạn, được củng cố bởi dòng vốn đầu tư nước ngoài mạnh mẽ và nguồn lao động dồi dào. Đặc biệt, Việt Nam và Mỹ đã nâng cấp quan hệ lên "Đối tác chiến lược toàn diện" sẽ thúc đẩy thu hút mạnh mẽ hơn dòng vốn FDI chất lượng cao vào Việt Nam.
Mở thêm thị trường, xuất khẩu hàng hóa ghi dấu ấn trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm
Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp thực hiện hiệu quả "Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu" với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và xuất siêu của nền kinh tế quý sau cao hơn quý trước.
Cán cân thương mại hàng hóa năm 2023 ước tính xuất siêu 28 tỷ USD là điểm sáng trong bức tranh kinh tế Việt Nam 2023 đặt trong bối cảnh thương mại toàn cầu ước tính giảm 2.000 tỷ USD, tương đương giảm 8% so với năm trước.
Đạt được dấu ấn này trong lĩnh vực thương mại quốc tế có vai trò của Chính phủ cùng đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng cam kết của các hiệp định FTA.
Chính phủ đã đàm phán với Trung Quốc mở cửa thêm thị trường xuất khẩu cho mặt hàng rau quả; nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ thông quan hàng hóa xuất khẩu. Lần đầu tiên xuất khẩu rau quả đạt 5,57 tỷ USD tăng 65,9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn rất nhiều so với kim ngạch xuất khẩu rau quả chỉ loanh quanh ở mốc 3,8 tỷ USD của những năm trước đây.
Bên cạnh đó, xuất khẩu gạo đạt kim ngạch 4,8 tỷ USD, tăng 17,4% về lượng nhưng tăng 39,4% về giá trị, phản ánh vị thế và chất lượng gạo Việt Nam trên bản đồ lúa gạo thế giới.
Đặc biệt các doanh nghiệp xuất khẩu đã nỗ lực giữ vững thị trường truyền thống, chủ động tìm kiếm đơn hàng, mở thêm thị trường mới bù đắp cho tổng cầu của thị trường truyền thống suy giảm; bảo đảm chất lượng sản phẩm với giá cạnh tranh, giảm một phần lợi nhuận để hạ giá bán; năng động, linh hoạt mở rộng ngành hàng, nhận những đơn hàng nhỏ, giá trị không cao để duy trì sản xuất, chờ đợi cơ hội.
Các doanh nghiệp dệt may có sự bứt phá cả về thị trường và mặt hàng; đã khai mở thị trường mới như thị trường châu Phi, sản phẩm mới cho các nước đạo Hồi.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp xuất khẩu đã khẩn trương nắm bắt tín hiệu thị trường, kịp thời tận dụng cơ hội tăng cường nhập khẩu của các nền kinh tế là đối tác thương mại chủ yếu của Việt Nam vào thời điểm cuối năm khi thế giới đón chào năm mới 2024 với nhiều ngày lễ, ngày mua sắm, người dân sẵn sàng dốc hầu bao chi tiêu.
Đa dạng giải pháp kích cầu tiêu dùng, từng bước khôi phục sức mua của thị trường trong nước
Cùng với phát huy tối đa động lực đầu tư công và xuất khẩu, trong bối cảnh tổng cầu tiêu dùng cuối cùng yếu, phục hồi chậm. Chính phủ và các địa phương triển khai thực hiện giải pháp kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng.
Thực hiện Nghị quyết giảm 2% thuế VAT có tác động trực tiếp làm tăng sức mua của người dân, khơi thông thị trường tiêu thụ, giải quyết lượng hàng tồn kho, hỗ trợ doanh nghiệp từng bước phục hồi, mở rộng sản xuất, đảm bảo ổn định việc làm cho người lao động.
Thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm kinh tế và tiêu dùng của toàn nền kinh tế đã thực hiện nhiều đợt khuyến mại, phát huy khá hiệu quả chính sách cắt giảm 2% thuế VAT, đẩy mạnh tiêu dùng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Thành phố và cả nước.
Trong ngày đầu tháng 12/2023, Chính phủ đã phát động Chương trình "Khuyến mại tập trung quốc gia 2023" diễn ra trên phạm vi toàn quốc nhằm thúc đẩy tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu góp phần phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Với hiệu ứng kết nối cung cầu được lan tỏa mạnh mẽ sẽ giảm thiểu lượng hàng tồn kho, thúc đẩy sản xuất đồng thời góp phần thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam khi giá hàng hóa và dịch vụ giảm sâu trong tháng khuyến mại quốc gia.
Chính sách kích cầu tiêu dùng đã phần nào phát huy hiệu quả trong năm 2023 với tiêu dùng cuối cùng của 2 quý cuối năm tăng cao hơn 2 quý đầu năm. Cụ thể, so với cùng kỳ năm trước, tiêu dùng cuối cùng của quý I/2023 tăng 3,01%; quý II tăng 2,44%; quý III tăng 3,79% và quý IV/2023 tăng 4,86%. Tổng tiêu dùng cuối cùng cả năm tăng 3,52% - mức tăng thấp, chỉ bằng gần 50% mức tăng của giai đoạn trước đại dịch.
Kinh tế Việt Nam 2023, kiên cường vượt các cơn gió ngược, tạo điểm sáng trong bức tranh kinh tế, thương mại toàn cầu xám màu
Trong bối cảnh kinh tế, thương mại và đầu tư toàn cầu suy giảm, thế giới phải đương đầu với các biến cố tài chính và tình hình địa chính trị phức tạp gây hệ luỵ nghiêm trọng tới phục hồi và phát triển kinh tế.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2023 của nước ta tăng 5,05 % là kết quả rất đáng khích lệ, gấp 1,68 lần mức tăng chung của kinh tế thế giới. Đây là nét khác biệt đáng tự hào, điểm sáng trước những cơn gió ngược toàn cầu, là kết quả vượt khó của doanh nghiệp và hộ kinh doanh; sự điều hành linh hoạt, hiệu quả, trách nhiệm của Chính phủ cùng sự đồng hành kịp thời của Quốc hội.
Nổi bật trong bức tranh tăng trưởng của nền kinh tế đó là khu vực nông nghiệp và thuỷ sản tăng 3,83% thực hiện xuất sắc vai trò quan trọng là nền tảng, trụ đỡ của nền kinh tế, giữ vững ổn định vĩ mô, góp phần kiểm soát thành công lạm phát năm 2023 ở mức 3,25%, làm căn cứ để Chính phủ điều chỉnh giá mặt hàng chiến lược.
Đặc biệt ngành nông nghiệp tăng 3,88% ghi dấu ấn đậm nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả; tạo điểm sáng nổi bật trong bức tranh thương mại hàng hoá quốc tế.
Thu ngân sách nhà nước vượt dự toán, bội chi ngân sách thấp hơn mục tiêu Quốc hội
Năm 2023, thu ngân sách Nhà nước ước tính đạt 1.717,8 nghìn tỷ đồng, vượt 6% dự toán cả năm trong bối cảnh khó khăn, khắc nghiệt của hoạt động sản xuất kinh doanh; bội chi ngân sách nhà nước ở mức 0,14% GDP, thấp hơn rất nhiều mục tiêu Quốc hội giao 4,42% GDP.
Kết quả thu ngân sách năm 2023 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó là: Đảm bảo cân đối thu-chi, giữ vững ổn định ngân sách nhà nước; tạo dựng nền tảng và cơ sở để phát huy tối đa vai trò quan trọng của chính sách tài khóa nghịch chu kỳ nhằm kích cầu tiêu dùng và đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng; tạo nguồn lực thực hiện chính sách an sinh xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia.
Những điểm sáng và dấu ấn đậm nét của bức tranh kinh tế Việt Nam 2023 ghi nhận sự đóng góp quan trọng của khu vực doanh nghiệp. Năm 2023, cộng đồng doanh nhân luôn chủ động, linh hoạt, sáng tạo vượt khó, từng bước phục hồi, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong khó khăn, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh liên kết nhằm ứng phó với những bất ổn, tăng cường khả năng thích ứng trước các biến động khó lường của kinh tế thế giới, giữ vững năng lực cạnh tranh; đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất; ứng dụng kinh tế số; vượt qua khó khăn, giữ ổn định và phát triển, nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Trong khó khăn bủa vây, cộng đồng doanh nhân vẫn hăm hở lao vào kinh doanh, thể hiện qua số doanh nghiệp thành lập mới trong năm đạt 159.294 doanh nghiệp, lần đầu tiên số doanh nghiệp thành lập mới trong năm gần chạm mức 160 nghìn doanh nghiệp, tạo ấn tượng khi gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023.
Cùng với đó số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 58.412 nghìn; bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Bức tranh kinh tế sẽ sắc nét hơn, ấn tượng hơn nếu một số bất cập được tháo gỡ kịp thời
Bức tranh kinh tế-xã hội Việt Nam 2023 sẽ sắc nét hơn, ấn tượng sâu đậm hơn nếu như một số bất cập về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh được tháo gỡ kịp thời; nếu doanh nghiệp không phải đối mặt với khó khăn từ dòng tiền và thủ tục hành chính.
Đặc biệt, nếu một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương nâng cao tinh thần trách nhiệm, không đùn đẩy, né tránh, bớt vô cảm với những khó khăn của doanh nghiệp và người dân, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giải ngân vốn đầu tư công.
Thật khó biện minh về tinh thần trách nhiệm người đứng đầu của 21 bộ, cơ quan trung ương và 33 địa phương khi đến tháng 11/2023 còn chưa phân bổ hết kế hoạch vốn năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ giao ngay từ đầu năm.
Đối với kinh tế nước ta, nếu giải ngân vốn đầu tư công tăng thêm 10% so với năm trước sẽ làm GDP tăng thêm 0,58 điểm phần trăm. Theo IMF, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam có thể tăng thêm 23% nếu nâng hiệu suất quản lý bằng các nước đi trước; đồng thời nếu hiệu suất sử dụng vốn đầu tư tăng 1 điểm phần trăm thúc đẩy GDP tăng thêm 0,1-0,12 điểm phần trăm.
Nếu nâng hiệu xuất quản lý và sử dụng vốn đầu tư sẽ thúc đẩy GDP tăng thêm từ 2,3% - 2,76%. Có thể thấy, nếu như đầu tư công được giải ngân nhanh hơn; các dự án công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng sớm hơn; nếu xóa bỏ được tình trạng nhiều dự án trọng điểm chậm tiến độ hàng chục năm so với kế hoạch thì kinh tế nước ta sẽ tăng trưởng nhanh và bền vững trong hàng thập kỷ.
Bên cạnh điểm sáng trong xuất khẩu hàng nông sản, bức tranh thương mại hàng hóa quốc tế năm 2023 của nước ta xuất siêu cao so với năm trước nhưng không phản ánh sức mạnh thực chất của nền kinh tế mà do sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn, phục hồi chậm, khiến nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất giảm, cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều giảm, nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm sâu hơn mức giảm của kim ngạch xuất khẩu nên dẫn tới xuất siêu. Nói cách khác, xuất siêu cao của nền kinh tế kém bền vững, chưa thực sự đáng mừng.
ĐÔI NÉT VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ LẠM PHÁT NĂM 2024 CỦA KINH TẾ VIỆT NAM
Kinh tế thế giới năm 2024 dần hồi phục sau đại dịch COVID-19 nhưng bấp bênh, đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro, thách thức, bao gồm: Tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang bị kìm hãm bởi ảnh hưởng dai dẳng của đại dịch, xung đột và rủi ro địa chính trị; sự suy giảm của các giải pháp kích cầu và lãi suất vẫn ở mức cao; giá hàng hóa cơ bản biến động khó lường; lạm phát có thể trỗi dậy; tình trạng phân mảng địa kinh tế gia tăng; khủng hoảng bất động sản ở Trung Quốc; thời tiết cực đoan.
Các chuyên gia kinh tế nhận định 5 yếu tố định hình kinh tế thế giới năm 2023 tiếp tục định hình năm 2024 và các năm tiếp theo, đó là: lãi suất; biến động của kinh tế Trung Quốc; phi toàn cầu hóa kinh tế thế giới; chuyển đổi năng lượng; can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế.
Về triển vọng kinh tế thế giới năm 2024, IMF dự báo GDP toàn cầu tăng 2,9%, thấp hơn mức tăng 3% của năm 2023; Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế dự báo tăng 2,7%; Viện kinh tế quốc tế Hàn Quốc dự báo tăng 2,8%; Ngân hàng Goldman Sachs dự báo tăng 2,6%.
IMF dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản đều thấp hơn năm 2023. Dự báo kinh tế khu vực Eurozone năm 2024 tăng 0,8%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với năm 2023.
Các tổ chức tài chính dự báo kinh tế Mỹ sẽ hạ cánh mềm trong năm 2024; Bank of America dự báo năm 2024 kinh tế Mỹ tăng 0,7%, thấp hơn 2 điểm phần trăm so với năm 2023. Thu nhập thực ở Mỹ có thể tăng chậm hơn so với tốc độ 4% năm 2023, động lực chi tiêu của kinh tế Mỹ có thể suy giảm do tiền tiết kiệm của người dân Mỹ từ chính phủ đã cạn.
Goldman Sachs dự báo lạm phát năm 2024 của các nền kinh tế phát triển và mới nổi tiếp tục hạ nhiệt về quanh mức 2%-2,5%. Trong đó lạm phát tại Mỹ tiếp tục giảm, chỉ số CPI tháng 11/2023 tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước; Chỉ số giá chi tiêu dùng cá nhân (PCE) tháng 11/2023 giảm 0,1% so với tháng 10/2023, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước.
Fed dự báo năm 2023 lạm phát chỉ tăng 2,8%. Tuy lạm phát đã giảm nhưng vẫn còn cao so với mong muốn của Fed; dự báo Fed sẽ bắt đầu hạ lãi suất vào tháng 3/2024. Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo việc Fed sớm hạ lãi suất dẫn đến nguy cơ lạm phát sẽ tăng trở lại.
Tỷ lệ lạm phát hằng năm tháng 11/2023 ở khu vực Eurozone giảm xuống 2,4%, mức thấp nhất trong hơn 2 năm qua. Tuy nhiên, Chủ tịch ECB Christine Lagarde cảnh báo một cú sốc năng lượng có thể khiến lạm phát tăng vọt trở lại.
Do căng thẳng địa chính trị dai dẳng, mức nợ cao và tính bấp bênh của các nền kinh tế sẽ tác động tiêu cực đến mô hình thương mại toàn cầu, UNCTAD dự báo triển vọng thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn rất bấp bênh, nhìn chung là bi quan.
Đôi nét về tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2024
Hoạt động kinh tế xã hội nước ta năm 2024 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều yếu tố rủi ro bất định; bất ổn địa chính trị, thời tiết cực đoan gây hệ luỵ nghiêm trọng đến an ninh năng lượng, lương thực, đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất; tiêu dùng suy giảm.
Dự báo năm 2024 tăng trưởng của các nền kinh tế hàng đầu thế giới, là đối tác thương mại lớn, quan trọng của nước ta suy giảm so với năm 2023.
Một số tổ chức tài chính, thương mại quốc tế đánh giá chính sách tài khoá và tiền tệ của Việt Nam hỗ trợ nhiều cho nền kinh tế, Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu công nghệ cao đứng thứ tư thế giới. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, năm 2024 tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào "cỗ xe tứ mã" đó là: Đổi mới, đảm bảo tính đồng bộ về thể chế và môi trường pháp lý cho phát triển kinh tế; thúc đẩy tiêu dùng của thị trường trong nước; thực hiện nhanh, hiệu quả vốn đầu tư công, tạo lan toả tới đầu tư ngoài nhà nước; thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Cùng với bốn động lực kéo cỗ xe kinh tế Việt Nam về phía trước, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh; tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu của một số ngành, lĩnh vực mới như chíp bán dẫn, công nghệ cao, năng lượng tái tạo là những động lực mới, trở thành trụ cột cho phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế trong thời gian tới.
Với mục tiêu tiếp tục ưu tiên tăng trưởng gắn với củng cố, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV đã thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 với mục tiêu tốc độ tăng GDP từ 6,0% - 6,5%.
Để GDP năm 2024 tăng 6% - 6,5%, dự kiến khu vực Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng khoảng 3% - 3,2%, thấp hơn 0,63 - 0,8 điểm phần trăm so với năm 2023; khu vực Công nghiệp và Xây dựng tăng 6,2%- 6,9% cao hơn 2,46 - 3,16 điểm phần trăm; khu vực Dịch vụ tăng 6,7% - 7,1% cao hơn 0,28 điểm phần trăm. Đây là các mức tăng không dễ đạt được khi khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã tăng rất cao trong năm 2023.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, thương mại toàn cầu bấp bênh và bi quan tác động rất mạnh tới sự phục hồi và tăng trưởng cao của khu vực công nghiệp. Tổng cầu tiêu dùng trong nước còn yếu khó thúc đẩy khu vực dịch vụ tăng cao. Tăng trưởng từ đầu tư công chỉ bù đắp được một phần cho các khu vực khác của nền kinh tế.
Đôi nét về lạm phát năm 2024
Bức tranh lạm phát năm 2024 đan xen các yếu tố gia tăng và kiềm chế lạm phát. Các yếu tố gây áp lực gia tăng lạm phát bao gồm: giá nguyên vật liệu dùng cho sản xuất đang ở mức cao; giá điện biến động theo chiều hướng tăng khi gia tăng nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và tiêu dùng; giá gạo tăng theo giá xuất khẩu khi sản lượng lương thực ở một số quốc gia suy giảm do biến đổi khí hậu; giá các mặt hàng chiến lược do Nhà nước quản lý như dịch vụ y tế, giáo dục có thể tăng sau nhiều năm kìm giữ; tác động của tăng lương và giá các mặt hàng tiêu dùng gia tăng theo yếu tố mùa vụ. Bên cạnh đó, thực hiện các chương trình hỗ trợ của Chính phủ sẽ làm gia tăng tổng cầu, gây áp lực lạm phát của nền kinh tế.
Với bất ổn địa chính trị, xung đột leo thang ở Trung đông gây rủi ro làm gián đoạn nguồn cung dầu mỏ; OPEC+ tuyên bố cắt giảm sản lượng tự nguyện thêm khoảng 2,2 triệu thùng/ngày, ngay từ đầu năm 2024 là những nguyên nhân đẩy giá dầu tăng vào năm 2024 với dự đoán giá dầu sẽ giao dịch trong khoảng từ 70-100 USD/thùng, tương đương giá dầu tăng tới 19% so với năm trước, gia tăng áp lực lạm phát đối với kinh tế nước ta.
Tuy vậy, Cơ quan Năng lượng quốc tế dự báo, nhu cầu dầu năm 2024 sẽ tăng chậm lại khi kết thúc giai đoạn phục hồi kinh tế sau đại dịch, cùng với sự phát triển của các loại xe điện và một số yếu tố khác.
Ở chiều ngược lại, các yếu tố kiềm chế lạm phát bao gồm: sự chủ động và nguồn cung dồi dào về lương thực, thực phẩm - nhóm hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong chi tiêu dùng của người dân; lạm phát toàn cầu hạ nhiệt, tiến dần về mức lạm phát mục tiêu, sẽ giảm áp lực "nhập khẩu" lạm phát; Chính phủ thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tạo dựng niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất sẽ làm giảm lạm phát kỳ vọng.
Năm 2024, kinh tế Mỹ dự báo hạ cánh mềm và Fed có thể cắt giảm lãi suất vào cuối quý I khiến USD giảm giá và tỷ giá giữa Việt Nam đồng và Đôla Mỹ giảm, do đó giảm áp lực lạm phát do tỷ giá đối với kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, hiện nay, lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng thương mại và lãi suất cơ bản của NHNN đã hạ thấp, cùng với đó Chính phủ chỉ đạo tăng trưởng tín dụng trong tháng cuối năm sẽ tạo áp lực lạm phát.
Với các yếu tố kiềm chế lạm phát, Chính phủ có kinh nghiệm trong điều hành giá hàng hóa và dịch vụ chiến lược, cùng với tổng cầu tiêu dùng chưa có dấu hiệu khởi sắc, mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024 từ 4%- 4,5% đã được Quốc hội thông qua hoàn toàn khả thi.
Chính phủ cần làm gì thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024?
Để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước tạo đà thuận lợi phấn đấu đạt cao nhất các mục tiêu theo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, tạo thế và lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tiếp theo, thiết nghĩ, Chính phủ và các địa phương cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Một là, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương khẩn trương đánh giá những tồn tại, bất cập, thách thức đang cản trở các nhóm động lực tăng trưởng hiện nay, đặc biệt đối với nhóm thể chế và môi trường pháp lý, từ đó đưa ra các giải pháp tháo gỡ nhằm phát huy tối đa sức mạnh, tính hiệu quả của từng nhóm động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Chính phủ và các địa phương cần xây dựng kịch bản tăng trưởng chi tiết dựa trên năng lực cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Khơi thông các nguồn lực, gắn tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm của thủ trưởng các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương. Chính phủ tiếp tục phát huy tinh thần khẩn trương, sát sao, cụ thể trong chỉ đạo điều hành, thực thi nghiêm chế tài đối với cán bộ công chức vô trách nhiệm.
Hai là, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ, trong đó ưu tiên thực hiện chính sách tài khóa hợp lý hỗ trợ tăng trưởng. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng và các chính sách khác. Nỗ lực giải quyết các điểm nghẽn, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tiếp tục thúc đẩy các động lực tăng trưởng.
Đặc biệt, Chính phủ cần cập nhật, điều chỉnh kịp thời các giải pháp phù hợp với thay đổi của kinh tế thế giới nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất.
Ngân hàng Nhà nước cần kiên định thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp, hài hòa với nhu cầu, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan trong nền kinh tế, giữ giá trị Việt Nam đồng, giảm áp lực lạm phát tiền tệ đối với nền kinh tế; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định giá nguyên vật liệu nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Ba là, đầu tư công tiếp tục là động lực quan trọng, thực hiện vai trò thúc đẩy, gánh vác và bù đắp tăng trưởng cho các động lực khác. Chính phủ và các địa phương cần đổi mới công tác lập, phân bổ kế hoạch và thẩm định dự án đầu tư công để mỗi dự án trở thành công trình hiệu quả.
Đặc biệt, Chính phủ cần xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình đầu tư công phù hợp, đáp ứng đúng và trúng nhu cầu đầu tư của từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Tập trung đầu tư vào các dự án lớn, xóa bỏ đầu tư dàn trải, giảm thiểu thời gian thực hiện dự án, khẩn trương đưa các công trình vào sử dụng, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần cải thiện cơ chế quản lý đầu tư, tăng cường quản lý tài sản công, nâng cao hiệu quả thu, chi ngân sách.
Để giải ngân nhanh vốn đầu tư công, Chính phủ cần có giải pháp nhằm phát huy vai trò, gắn trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu bộ, cơ quan và địa phương trong giải ngân vốn đầu tư công. Người đứng đầu phải trực tiếp chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên. Đồng thời khẩn trương nâng cao năng lực của chủ đầu tư, nhà thầu thi công, xây lắp.
Đặc biệt, cần tập trung xử lý vấn đề giải phóng mặt bằng (GPMB), Chính phủ nên bố trí GPMB thành một dự án độc lập, được thực hiện với các quy định đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm nâng cao tính sẵn sàng cho việc triển khai dự án. Các cơ chế và mức bồi thường GPMB phải thỏa đáng, bảo đảm quyền lợi cho người dân khi di dời, tái định cư để có sự đồng thuận khi triển khai.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế điều chỉnh kịp thời định mức thầu, giá thầu và giá các loại vật tư, vật liệu xây lắp khi có biến động giá trên thị trường; đảm bảo đầy đủ, kịp thời vật liệu xây lắp, đắp nền.
Bốn là, chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và định hình lại chuỗi cung ứng. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vẫn là động lực quan trọng không chỉ trong thập kỷ này mà cả trong thập niên tới.
Chính phủ cần khẩn trương nắm bắt các ngành, lĩnh vực nào sẽ trở thành xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thời gian tới, kịp thời sửa đổi và bổ sung Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu để đưa kinh tế Việt Nam hòa vào dòng chảy, thuộc nhóm đi tiên phong trên một số lĩnh vực của kinh tế thế giới.
Theo đánh giá của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu công nghệ cao đứng thứ tư thế giới và phải mất 15 năm để trở thành cường quốc xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao. Dệt, may không còn là sản phẩm xuất khẩu hàng đầu mà được thay thế bởi sản phẩm công nghệ cao. Chính phủ cần xác định cụ thể phải làm gì; tập trung đầu tư, phát triển ngành nào trong lĩnh vực công nghệ cao; liệu chăng Việt Nam có thể rút ngắn thời gian để biến tiềm năng thành hiện thực, trở thành cường quốc trong xuất khẩu công nghệ cao.
Năm là, Chính phủ cần chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn.
Điện là loại năng lượng quan trọng, không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng. Chính phủ cần dự báo nhu cầu, xây dựng kế hoạch, nhanh chóng thực thi các giải pháp đảm bảo cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Cùng với đó, Chính phủ khẩn trương xây dựng, ban hành các chính sách, giải pháp để giá điện dần vận hành theo cơ chế thị trường; nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; nghiên cứu ban hành chế tài, quy định ngành điện phải bồi thường cho doanh nghiệp khi bị cắt điện gây thiệt hại sản xuất.
Cộng đồng doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, đầu tư và sử dụng công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng; tập trung đầu tư chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo như điện mặt trời lắp đặt trên mái nhà xưởng sản xuất để chủ động ứng phó với các biến động không thuận về năng lượng, cắt giảm chi phí do giá năng lượng tăng cao.
Sáu là, bối cảnh kinh tế thế giới biến đổi nhanh, phức tạp; ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, phát triển xanh là xu hướng tất yếu, không thể trì hoãn, đang làm thay đổi rất nhanh cấu trúc kinh tế thế giới ngay trong thập kỷ này.
Cùng với đó, chuỗi cung ứng toàn cầu được sắp xếp lại trong một trật tự kinh tế toàn cầu lỏng lẻo. Kinh tế nước ta có độ mở lớn, muốn phát triển Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng kinh tế thế giới.
Vì vậy, Chính phủ phải nắm bắt thời cơ, kiến tạo động lực mới cho phát triển. Chính phủ cần khẩn trương xây dựng chiến lược, với các giải pháp toàn diện, đồng bộ, kế hoạch và lộ trình thực hiện chi tiết, cụ thể để tạo dựng và phát triển một số ngành, lĩnh vực sẽ đóng vai trò là động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế như: lĩnh vực công nghệ cao, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo; kinh tế tuần hoàn; năng lượng tái tạo.
Với lợi thế của đất nước có tình hình chính trị và môi trường vĩ mô ổn định, môi trường pháp lý đầy đủ, môi trường kinh doanh không ngừng được cải thiện; nền kinh tế năng động, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, thành viên của nhiều hiệp định thương mại đa phương và song phương quan trọng có quy mô và tầm vóc; vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam có sức hấp dẫn và thu hút sự quan tâm của nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới muốn đến đầu tư. Đảng và Nhà nước cần khẩn trương hành động với tư duy đột phá, nắm bắt thời cơ kiến tạo các động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững, không bỏ lỡ cơ hội rồi tụt hậu.
Với phương châm bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả, với năng lực và kinh nghiệm trong điều hành của Chính phủ cùng sự đồng hành kịp thời, hiệu quả của Quốc hội; với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế Việt Nam sẽ hoá giải được những khó khăn, bất cập, đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2024 đã được Quốc hội thông qua./.
Nguyễn Bích Lâm
Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê