Những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong năm 2024
Hầu hết dự báo của các tổ chức quốc tế cho rằng, kinh tế thế giới đã qua giai đoạn khó khăn nhất song tác động của chu kỳ thắt chặt tiền tệ, bất ổn địa chính trị, chính sách bảo hộ Thương mại sẽ vẫn phủ bóng lên triển vọng năm 2024.
Triển vọng kinh tế thế giới không quá lạc quan
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2024 sẽ chỉ đạt 2.7%, thấp hơn so với mức ước tính 2.9% của năm 2023. Tuy nhiên, OECD nhận định kinh tế toàn cầu có thể “hạ cánh mềm”, đặc biệt là tại các nước phát triển, thay vì rơi vào suy thoái như các lo ngại trước đây.
“Lực đỡ” cho nền kinh tế toàn cầu chủ yếu đến từ kỳ vọng chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ trên toàn cầu đang đi vào pha kết thúc.
Nhà kinh tế trưởng của OECD Clare Lombardelli đánh giá: “Chúng tôi đã điều chỉnh tăng trưởng cho năm 2024, với triển vọng mạnh mẽ hơn ở Mỹ, nhưng yếu hơn đối với châu Âu. Trong khi đó, các nền kinh tế mới nổi ở châu Á dự kiến sẽ là một phần động lực cho tăng trưởng toàn cầu trong hai năm tới.
Nền kinh tế lớn nhất thế giới - Mỹ, bước vào năm 2024 với vị thế ổn định hơn so với các dự báo ban đầu với hơn 239 nghìn việc làm mới mỗi tháng, tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức ổn định bất chấp chính sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ lạm phát đang trên đà giảm tốc. Chính sách tiền tệ nước này đứng trước bước ngoặt đảo chiều khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) phát đi thông điệp vào giữa tháng 12/23 rằng kỳ vọng có ít nhất 3 đợt cắt giảm lãi suất trong năm 2024, với tổng mức giảm mỗi lần là 75 điểm cơ bản.
Mặc dù, gần như Mỹ sẽ thoát khỏi suy thoái song dự báo tăng trưởng năm 2024 chỉ ở mức 1.5%, thấp hơn năm 2023, chủ yếu do tác động của việc lãi suất vẫn neo cao, gây áp lực lên các doanh nghiệp. Một vài số liệu kinh tế khác cũng cho thấy xu hướng phục hồi vẫn còn khó khăn, chẳng hạn như: Chỉ số quản trị người mua hàng (PMI) sản xuất của Mỹ đã giảm xuống 48.2 vào tháng 12/23, mức thấp nhất trong 4 tháng qua.
Vì vậy, hiện vẫn còn khá nhiều bất đồng trong dự báo triển vọng của kinh tế Mỹ năm 2024, chủ yếu xoay quanh vấn đề là liệu lạm phát sẽ giảm xuống mức bao nhiêu và cắt giảm lãi suất bao nhiêu là hợp lý nhằm vực dậy nền kinh tế.
Nền kinh tế lớn Trung Quốc cũng đang phục hồi sau nhiều cú sốc nhưng đà phục hồi này vẫn "mong manh" do sự suy yếu của thị trường bất động sản và niềm tin của người tiêu dùng chưa phục hồi.
Theo dự báo của Viện nghiên cứu Ngân hàng Trung Quốc công bố ngày 12/12, GDP của nước này sẽ tăng khoảng 5.6% trong quý 4 và khoảng 5.3% năm 2023, cao hơn mục tiêu dự kiến khoảng 5% cho cả năm. Số liệu thống kê cũng cho thấy, hoạt động sản xuất của Trung Quốc sau khi cải thiện đôi chút trong tháng 9/23, lại liên tục thu hẹp trong tháng 10 và tháng 11, xuất khẩu của nước này trong tháng 10 giảm 6.4% so với một năm trước đó xuống còn 274.8 tỷ USD, ghi nhận tháng thứ 6 liên tiếp suy giảm. Doanh số bán lẻ tháng 11 mặc dù tăng 7.6%, cao hơn so với kỳ vọng, song đà phục hồi vẫn chưa chắc chắn.
Tuy nhiên bất chấp những nỗ lực của Trung Quốc trong việc “giải cứu” thị trường bất động sản, các số liệu cho thấy các biện pháp này chưa hiệu quả. Theo số liệu của Cục thống kê quốc gia, giá nhà tiếp tục giảm trong tháng 10/2023, mức giảm giá ở một số nơi thậm chí còn được xem là nhiều nhất kể từ tháng 10/2020 – khi cuộc khủng hoảng bắt đầu.
Tiềm ẩn rủi ro lạm phát tăng mạnh
Tại Việt Nam, chỉ số CPI tháng 11/2023 tăng 3.5% so với cùng kỳ và bình quân 11 tháng tăng 3.2% so với cùng kỳ duy trì dưới mức mục tiêu 4.5% của chính phủ. Tốc độ tăng CPI đã giảm từ tháng 10 nhưng MBS cho rằng lạm phát vẫn chịu áp lực vào tháng cuối của năm bởi những yếu tố như giá máy bay và chi phí đi lại tăng cao do yếu tố mùa vụ và giá gạo tăng theo giá xuất khẩu và dự kiến đẩy CPI trung bình cả năm 2023 sẽ dao động ở mức 3.4%.
MBS dự kiến CPI bình quân 2024 sẽ dao động ở động ở mức 3.5% - 3.6%, mức lạm phát vẫn duy trì nằm trong kế hoạch đề ra của chính phủ là 4%-4.5% do cầu trong nước vẫn còn thấp.
Giá thép xây dựng nội địa sẽ phục hồi lên mức 15 triệu VNĐ/tấn (+8% so với cùng kỳ) trong năm 2024 nhờ đà tăng giá thép thế giới và nhu cầu ấm lên ở thị trường Việt Nam. Đồng thời các chính sách hỗ trợ sẽ thúc đẩy phục hồi thị trường BĐS từ giữa năm 2024, nguồn cung căn hộ dự kiến tăng trưởng 20% so với cùng kỳ (theo dự báo của CBRE) sẽ đẩy mạnh nhu cầu và tác động tích cực đến giá thép nội địa và tác động đến chỉ số giá của nhóm vật liệu xây dựng.
Giá điện đã tăng lần thứ hai trong năm từ ngày 09/11 từ 1,920.37 đồng lên 2,006.79 đồng/kWh (chưa gồm thuế VAT) (tăng 4.5%) sẽ đẩy chỉ số giá tiêu dùng trong các tháng đầu năm 2024 và tác động đến các hàng hóa, sản phẩm và các dịch vụ liên đới và đẩy chi tiêu hàng ngày vọt lên.
Trong khi thương mại của Việt Nam được hưởng lợi từ giá gạo sẽ tăng trong bối cảnh nhu cầu tại các thị trường châu Á và châu Phi tăng lên, giá cả quốc tế đã đẩy giá hàng hóa thiết yếu trong nước tăng cao. Giá gạo toàn cầu trung bình năm 2023 cao hơn 28% so với năm 2022 và dự kiến sẽ tăng thêm 6% vào năm 2024 (theo dự báo của WB) tiếp tục tác động đến giá lương thực thực phẩm.
Ngoài ra, giá dầu cũng là một yếu tố đáng chú ý trong năm sau trong bối cảnh các xung đột quốc tế có thể kéo dài. Tuy nhiên, triển vọng giá dầu chưa thực sự rõ ràng vì các cam kết cắt giảm từ OPEC+ hiện tại chỉ chắc chắn kéo dài đến hết Quý I/2024, sản lượng từ các quốc gia ngoài OPEC+ liên tục gia tăng trong bối cảnh nhu cầu ảm đạm do ảnh hưởng từ nền kinh tế. MBS dự báo giá dầu trung bình năm 2024 sẽ trong khoảng 83 - 85 USD/thùng, tức là tăng nhẹ khoảng 1.2% - 3.6% so với giá dầu trung bình năm 2023.
Thị trường bất động sản ảm đạm kéo dài...
Thị trường bất động sản dân cư vẫn chưa cải thiện đáng kể trong quý cuối năm. Tỷ trọng hàng tồn kho và người mua trả tiền trước trên tổng tài sản cũng đang trong xu hướng giảm do thị trường BĐS ảm đạm. Giá trị hàng tồn kho cuối quý 3/2023 của các doanh nghiệp BĐS niêm yết đạt 453.4 nghìn tỷ đồng gần như không có thay đối so với đầu năm cho thấy các dự án BĐS đang tạm dừng triển khai.
Điều này sẽ tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh và nguồn vốn của doanh nghiệp bị “đóng băng” tại các dự án dở dang. Hơn nữa, người mua trả tiền trước giảm 5% so với cùng kỳ cho thấy các DN vẫn còn gặp khó khăn trong mở bán sản phẩm.
... gây áp lực thị trường trái phiếu và nợ xấu hệ thống
MBS cho rằng thị trường bất động sản ảm đạm kéo dài sẽ gây áp lực lên thị trường trái phiếu cũng như nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Uớc tính giá trị trái phiếu BĐS đáo hạn trong Q4/23 và năm 2024 lần lượt là 12,172 tỷ đồng và 125,305 tỷ đồng, giảm 29% và 5% so với trước khi mua lại. MBS uớc tính tổng giá trị TPDN chậm các nghĩa vụ thanh toán vào khoảng 192 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 19% dư nợ TPDN hiện nay của toàn thị trường, trong đó nhóm ngành bất động sản tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 70% giá trị chậm trả.
Tỷ lệ nợ xấu (NPL) toàn ngành tại Q3/23 đạt 2.2%, tăng 64 điểm cơ bản so với 2022, và là mức NPL cao nhất từ năm 2015. Hầu như tất cả các ngân hàng đều tiếp tục ghi nhận tỷ lệ nợ xấu (NPL) gia tăng tại Q3/23 so với đầu năm và các quý liền trước. Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giãn nợ đã giúp tỷ lệ nợ xấu và sự sụt giảm LLR giảm tốc. NPL toàn ngành tăng mạnh từ 1.4% cuối năm 2022 lên 2.1% cuối Q2/2023 nhưng chỉ tăng 10 điểm cơ bản trong Q3/2023. LLR giảm hơn 21% trong 6T2023 nhưng chỉ giảm 5.8% trong Q3/2023.
Gần 70% tài sản thế chấp tại hệ thống ngân hàng là tài sản bất động sản. Nếu thị trường bất động sản trầm lắng kéo dài hơn, các ngành kinh tế khác chưa kịp lấy lại đà phục hồi, áp lực nợ xấu ngân hàng gia tăng sẽ tạo điểm nghẽn cho tăng trưởng kinh tế.
Trung Anh