0922 281 189 ts.kinhtetieudung@gmail.com
Thứ năm, 13/07/2023 15:26 (GMT+7)

Những chính sách tiền tệ của Việt Nam trước chính sách của ngân hàng trung ương các nước lớn

Theo dõi KT&TD trên

Trước tình hình kinh tế hiện nay, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là rất nặng nề. Bởi, việc hoạch định chính sách không chỉ dựa vào tình hình kinh tế trong nước mà còn phải nhìn sang cả chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương trên thế giới.

Nhìn sang các nước khác

Không giống như ở nhiều nước khác trên thế giới, nơi lạm phát nhìn chung đã đạt đỉnh và giảm nhiệt dần (tuy vẫn đứng ở mức cao) từ một vài tháng trước, lạm phát của Việt Nam, như được biểu hiện qua tốc độ tăng/giảm của chỉ số giá cả CPI bình quân năm tháng đầu năm 2023 so với năm trước, vẫn tiếp tục xu hướng tăng kể từ năm 2021 (3,55% năm 2023; 2,25% năm 2022 và 1,29% năm 2021).

So với mức lạm phát mục tiêu mà Quốc hội đề ra cho năm nay là 4,5% (đã tăng từ mức 4% đặt ra cho năm 2022), và so với mức lạm phát thực tế đạt được trong năm 2022 là 3,15%, việc kiềm chế lạm phát dưới mức mục tiêu cho năm nay vẫn còn không ít thách thức.

Đặc biệt hơn, tốc độ tăng trường kinh tế của Việt Nam từ đầu năm nay đã có xu hướng chững lại rõ rệt sau khi đạt được mức tăng ấn tượng trong các quí của năm trước nhờ chấm dứt giãn cách, phong tỏa trong dịch Covid-19.

Những chính sách tiền tệ của Việt Nam trước chính sách của ngân hàng trung ương các nước lớn
Nhiệm vụ của NHNN càng trở nên gian nan hơn nữa khi việc hoạch định chính sách tiền tệ của mình còn phải “nhìn” sang cả chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.

Không những vậy, đã có rất nhiều tín hiệu không được khả quan như tình trạng doanh nghiệp đóng cửa, chấm dứt hoạt đôngk tăng lên. Đơn hàng giảm sút, các cửa hàng ở các phố lớn đóng cửa, việc sa thải nhân công diễn ra nhiều hơn…, đã có nhiều tiếng nói đề xuất tiếp tục giảm lãi suất (nới lỏng chính sách tiền tệ), đi ngược lại với chiều hướng khó tránh khỏi là phải tăng lãi suất để tiếp tục kiềm chế lạm phát vẫn đang có xu hướng gia tăng.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với tư cách là cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ, với sứ mệnh ổn định giá cả và tài chính, quyết định mặt bằng lãi suất trong nước, đồng thời cũng có tư cách là một cơ quan thuộc Chính phủ, chịu sự chi phối, tác động chính sách trực tiếp từ Chính phủ và gián tiếp từ các cơ quan, đoàn thể khác, như thường lệ, đang chịu áp lực lớn từ các bên để đưa ra được một chính sách tiền tệ với lãi suất khả dĩ đạt điểm cân bằng thỏa mãn cho tất cả các bên.

Nhiệm vụ của NHNN càng trở nên gian nan hơn nữa khi việc hoạch định chính sách tiền tệ của mình còn phải “nhìn” sang cả chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới.

Ảnh hưởng từ các ngân hàng trung ương

Nền kinh tế của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng rất lớn trước sự biến động của nền kinh tế thế giới, Chính vì thế chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương các nước lớn trên thế giới cũng có tác động đến chính sách tiền tệ của NHNN qua một số kênh như: lãi suất, tỷ giá, dòng vốn lưu chuyển xuyên biên giới, ổn định tài chính, và điều phối chính sách.

Khi một ngân hàng trung ương lớn như Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) điều chỉnh lãi suất chính sách, nó có thể ảnh hưởng đến chi phí vay, quyết định đầu tư và kỳ vọng về lạm phát nền kinh tế trong nước, từ đó ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong nước.

Tương tự, các biện pháp của các ngân hàng trung ương lớn, chẳng hạn như thay đổi lãi suất ở Mỹ hoặc can thiệp vào thị trường ngoại hối như ở Nhật Bản, có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái tiền đồng. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động đến chính sách tiền tệ trong nước bởi vì nó ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của xuất khẩu, giá nhập khẩu và lạm phát, là những yếu tố phải tính đến trong hoạch định chính sách tiền tệ của NHNN.

Ngoài ra, chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn cũng có thể ảnh hưởng đến dòng vốn giữa các quốc gia. Khi Fed thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, như giảm/ngừng nới lỏng định lượng hoặc mua tài sản tư nhân (trái phiếu doanh nghiệp), nó có thể làm tăng lãi suất và giảm cung tiền trong nền kinh tế.

Điều này khiến cho các nhà đầu tư chuyển sang tìm kiếm lợi suất cao ở Mỹ và có thể đảo ngược dòng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam. Khi đó, NHNN có thể sẽ phải xem xét điều chỉnh chính sách của mình để quản lý tác động đảo chiều của dòng vốn ngoại lên nền kinh tế trong nước.

Một số động thái chính gần đây nhất của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới được liệt kê như dưới đây. Fed đã tăng mục tiêu cho lãi suất chính sách của mình lên 5-5,25% sau hai cuộc họp vào tháng 3 và tháng 5. Theo Fed, họ sẽ đánh giá các dữ liệu mới và xem xét tác động trễ của việc siết chặt chính sách cho đến nay để xác định mức độ siết chặt phù hợp. Trong cuộc họp vào tháng 6, Fed tạm không tăng lãi suất nhưng không loại trừ điều này sẽ tiếp tục diễn ra trong các tháng sau.

Những chính sách tiền tệ của Việt Nam trước chính sách của ngân hàng trung ương các nước lớn
Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) điều chỉnh lãi suất chính sách, nó có thể ảnh hưởng đến chi phí vay, quyết định đầu tư và kỳ vọng về lạm phát nền kinh tế trong nước, từ đó ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ trong nước.

Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 50 điểm cơ bản lên 3% sau cuộc họp vào tháng 3, theo dự báo được đưa ra trong tháng 2. ECB cho biết tương lai của lãi suất chính sách sẽ phụ thuộc vào dữ liệu thực tế thu thập trong bối cảnh bất trắc đang gia tăng. Và ngày 4-5, ECB đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản, đánh dấu lần tăng thứ 7 liên tiếp.

Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản lên 4,25% tại cuộc họp vào tháng 3. BoE cho biết sẽ siết chặt chính sách tiền tệ thêm nếu có bằng chứng về áp lực lạm phát dai dẳng hơn. Và ngày 11-5, BoE đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản, đánh dấu lần tăng thứ 12 liên tiếp.

Ngân hàng Trung ương Canada (BoC) đã giữ mức lãi suất chính sách ổn định ở 4,5% trong cả hai cuộc họp vào tháng 3 và tháng 4. BoC cho biết sẵn sàng tăng mức lãi suất chính sách nếu cần thiết. Ngày 7-6, BoC đã tăng mức lãi suất chính sách thêm 25 điểm cơ bản.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) đã giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức -0,1% trong cả hai cuộc họp vào tháng 3 và tháng 4 và cho biết sẽ tiếp tục nới lỏng tiền tệ (qua mua tài sản) cho đến khi lạm phát duy trì ổn định trên mức mục tiêu 2%.

Một số ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế phát triển khác như ở Thụy Điển, Thụy Sỹ, Nga, Hàn Quốc, và New Zealand cũng đều đã tăng lãi suất chính sách của mình lên mức 1,5-5,25% trong các cuộc họp diễn ra từ tháng 2 đến tháng 4-2023.

Hầu hết các ngân hàng trung ương đã tiếp tục giảm số lượng tài sản được mua theo chương trình nới lỏng định lượng. BoC cho phép các trái phiếu đáo hạn mà không tái đầu tư, trong khi Fed tiếp tục tái đầu tư một phần thu nhập từ trái phiếu đáo hạn. Vào tháng 3, ECB đã bắt đầu giảm số lượng trái phiếu bằng cách tái đầu tư một phần nhỏ. BoE tiếp tục bán các khoản trái phiếu của mình.

Ngân hàng Trung ương Thụy Điển gần đây đã bắt đầu bán các khoản trái phiếu chính phủ có thời hạn dài, bên cạnh việc cho phép các tài sản khác đáo hạn mà không tái đầu tư. BoJ hiện là ngân hàng trung ương lớn duy nhất vẫn đang tăng lượng trái phiếu mua sắm của mình.

Như vậy có thể thấy, ngoại trừ BoJ, các ngân hàng trung ương lớn khác hầu như chỉ chú trọng đến kiềm chế lạm phát và sẵn sàng tăng lãi suất chính sách hơn nữa nếu lạm phát vẫn vượt xa mục tiêu, vẫn đứng ở mức cao dai dẳng dù có dịu đi so với mức đỉnh mấy tháng trước đây.

Điều này đã đặt ra bài toán rất lớn đối với NHNN, những động thái của NHNN như đã “nhanh chân” hơn các đối thủ nước ngoài của mình, lội ngược dòng trào lưu tăng lãi suất chung trên thế giới bằng bốn đợt hạ lãi suất từ ngày 15-3-2023 đến nay. Hỗ trợ thanh khoản, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân là lý do chủ yếu cho các hành động chính sách này.

Việc ổn định tỷ giá tiền đồng bằng các yếu tố nội lực của nền kinh tế Việt Nam như dự trữ ngoại hối, thặng dư thương mại, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp…, vốn đã ít nhiều bị thương tổn trong giai đoạn trong và hậu Covid-19, sẽ là một thách thức.

Chính vì những yếu tố bất lợi trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ NHNN cần kiên định ít nhất là không hạ thêm lãi suất chính sách trong nửa cuối năm nay.

Quang Anh

Bạn đang đọc bài viết Những chính sách tiền tệ của Việt Nam trước chính sách của ngân hàng trung ương các nước lớn. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0922 281 189 Hoặc email: ts.kinhtetieudung@gmail.com

Cùng chuyên mục

Thu chi minh bạch với tính năng Quỹ nhóm trên App HDBank
Tập hợp những tiện ích tối ưu như góp và rút quỹ, lịch sử thu chi, thông báo khi có biến động số dư, mời và xóa thành viên tham gia tiện lợi, tính năng Quỹ nhóm của App HDBank là lựa chọn của nhiều khách hàng khi mở quỹ nhóm.
HoREA: Đề xuất chỉ áp thuế 6% với doanh nghiệp làm nhà ở xã hội cho thuê
Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh (HoREA) vừa có văn bản góp ý sửa đổi, bổ sung một số điều của Dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Đáng chú ý, trong đó, HoREA đề xuất doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở xã hội chỉ để cho thuê được áp dụng thuế suất 6% thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tăng trưởng tín dụng: 'Nóng' vì phập phù
Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến 28/6, tín dụng tăng 6%, đến cuối tháng 7 chỉ còn 5,66% nhưng đến 14/8 lại đạt 6,11%. Sự trồi sụt bất thường này cho thấy tăng trưởng tín dụng có rất nhiều vấn đề.

Tin mới

Mang Trung thu ấm áp đến trẻ em mọi miền
Vinamilk đã thực hiện nhiều hoạt động đón trung thu với trẻ em ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, các em nhỏ có hoàn cảnh kém may mắn tại các trung tâm bảo trợ và mang những phần sữa, bánh đến với trẻ em sau những ngày bão lũ.
Câu chuyện hạt cà phê Việt
Nestlé Việt Nam vừa tổ chức thành công chương trình “Câu chuyện hạt cà phê Việt” tại nhà máy Nestlé Trị An, một trong những nhà máy chế biến cà phê có quy mô và công nghệ hiện đại nhất trên thế giới của Tập đoàn Nestlé.
Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm khắc phục hậu quả bão số 3, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 17/9/2024 về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3 (Yagi), nhanh chóng ổn định tình hình nhân dân, đẩy mạnh khôi phục sản xuất kinh doanh, tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát.