Việt Nam có thể trở thành trung tâm cung ứng thời trang toàn cầu
Việt Nam vốn đã là một trung tâm tìm nguồn cung ứng quan trọng cho các hãng thời trang lớn như Zara, H&M hay Nike… Các nhà phân tích hàng đầu cho rằng, đây là một cách ngày càng có giá trị để các “ông lớn” thời trang thế giới giảm tiếp xúc với Trung Quốc.
Theo các nhà phân tích, các thương hiệu thời trang hàng đầu thế giới đang tìm cách giảm tiếp xúc với Trung Quốc, và họ coi Việt Nam là một cách tiết kiệm chi phí để theo đuổi chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng và kết nối bạn bè. Trong khi, Việt Nam hiện có 6.000 công ty sản xuất dệt may, sử dụng 2,5 triệu lao động, xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trước những khó khăn của kinh tế thế giới, Chủ tịch AAFA nhấn mạnh, rằng: “Bất chấp những hạn chế về năng lực và sản xuất đã xuất hiện trong vài năm qua, Việt Nam vẫn là đối tác cung ứng quan trọng cho hàng may mặc, giày dép và hàng hóa du lịch”.
Việt Nam: đối tác cung ứng quan trọng cho hàng may mặc toàn cầu
Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden hồi tháng 9/2023 được coi là sự chứng thực cho các công ty Hoa Kỳ tăng cường đầu tư vốn lớn vào quốc gia Đông Nam Á. Mặc dù địa chính trị và chuỗi cung ứng công nghệ là ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự. Song chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của các nhà sản xuất Việt Nam đối với ngành thời trang toàn cầu.
Chia sẻ với Business of Fashion, ông Steve Lamar, Chủ tịch Hiệp hội May mặc và Giày dép Hoa Kỳ (AAFA), cho biết: “Khi chính sách đối ngoại và thương mại tìm kiếm sự đa dạng hóa từ Trung Quốc… chuyến thăm ngắn ngày của ông Biden đã thu hút sự chú ý đến Việt Nam”.
Theo Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, từ năm 2018 đến năm 2022, Việt Nam được xếp hạng là nước xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai sang Mỹ sau Trung Quốc, với giá trị tăng 54,9% trong giai đoạn này.
Ông Lamar cho biết thêm, rằng “các công ty tiếp tục khám phá cách thức và liệu họ có nên mở rộng hoạt động hiện có tại Việt Nam hay không, và trong phạm vi họ chưa tìm nguồn cung ứng ở đó, liệu họ có nên thêm Việt Nam vào danh sách nguồn cung ứng của riêng mình hay không”.
Mặc dù trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu, một số nhà máy tại Việt Nam đang phải vật lộn để theo kịp các đối thủ ngày càng cạnh tranh trên khắp châu Á. Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), cho biết: “Bangladesh có chi phí lao động rất thấp; mức lương trung bình là 80 USD mỗi tháng so với 130 USD đối với người Việt Nam”.
VITAS ước tính chi phí nhân công và thuê đất của doanh nghiệp Việt Nam chiếm 32% tổng giá thành sản phẩm dệt may, so với chỉ 12% ở Bangladesh và Campuchia.
Theo Tập đoàn Dệt may Việt Nam, ngành này đã mất 1,3% thị phần tại Mỹ trong nửa đầu năm ngoái 2023. Việt Nam cũng chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về đơn đặt hàng từ các khu vực nhập khẩu chính, bao gồm Mỹ và EU, do nhu cầu thấp hơn và những khó khăn của kinh tế toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, nhà sản xuất giày dép Đài Loan Pouyuen, nhà thầu sản xuất cho Adidas, Nike và Reebok, đã sa thải hơn 8.000 công nhân tại Việt Nam trong hai đợt do không đủ đơn đặt hàng vào năm ngoái. Trong khi ông Trần Như Tùng, Chủ tịch hội đồng quản trị Tập đoàn Thành Công, cho biết trong báo cáo thường niên 2022 của công ty, rằng “hầu hết các công ty trong ngành đều thiếu đơn hàng hoặc phải chấp nhận đơn hàng giá thấp hơn để duy trì sản xuất và giữ chân công nhân”. Công ty này đang tập trung làm hàng cho các khách hàng xuất khẩu, bao gồm Adidas, New Balance và Eddie Bauer.
Tuy nhiên, Chủ tịch AAFA, cho rằng những thách thức gần đây không làm giảm đáng kể sự quan tâm của các thương hiệu đối với Việt Nam. Theo ông Lamar “bất chấp những hạn chế về năng lực và sản xuất đã xuất hiện trong vài năm qua, Việt Nam vẫn là đối tác cung ứng quan trọng cho hàng may mặc, giày dép và hàng hóa du lịch”.
Trong nhiều thập kỷ, Việt Nam là cơ sở sản xuất chính cho các thương hiệu lớn về may mặc và giày dép trên toàn cầu. Chỉ riêng Nike đã có hơn 100 nhà cung cấp tại Việt Nam, với 96 nhà máy tập trung ở khu vực phía Nam, theo Báo cáo Công nghiệp Sản xuất Giày Việt Nam 2022 của Research and Markets.
Cố vấn pháp lý tại Công ty tư vấn Luther Việt Nam kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban Lĩnh vực Pháp lý của Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam, ông Leif Schneider, cho biết: “Việt Nam đã trải qua một trong những giai đoạn tăng trưởng mạnh nhất về năng lực sản xuất và chế biến trên thế giới kể từ đầu những năm 2000”.
Việt Nam hiện có khoảng 6.000 công ty sản xuất hàng dệt may, sử dụng 2,5 triệu lao động, với các thị trường xuất khẩu hàng đầu là Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc. Năm 2022, xuất khẩu đạt 37,6 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước; năm 2023 là 40,3 tỷ USD, dù thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 44 tỷ USD, song điều đó cũng cho thấy mức tăng trưởng ấn tượng của ngành này.
Việt Nam có vị trí chiến lược và nhiều lợi thế
Trong những năm gần đây, Việt Nam chứng kiến sự gia tăng các công ty thời trang thành lập cơ sở sản xuất khi họ tìm cách giảm thiểu rủi ro và đa dạng hóa chuỗi cung ứng.
Theo người đứng đầu bộ phận nghiên cứu chuỗi cung ứng của S&P Global Market Intelligence, ông Chris Rogers khẳng định, rằng: “Cơ hội chính cho các công ty tìm nguồn cung ứng từ Việt Nam nằm ở việc giảm chi phí và rủi ro chính trị trước Trung Quốc”.
Nhiều công ty muốn giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc trong bối cảnh các phong trào kết bạn và hướng chuỗi cung ứng về gần hơn ngày càng gia tăng, và họ coi Việt Nam là một cách để theo đuổi chiến lược 'Trung Quốc cộng một' (C+1) với một nước láng giềng. Thậm chí trước đó, các công ty đã tìm kiếm nguồn cung ứng thay thế ở Việt Nam do chi phí lao động ở Trung Quốc tăng cao.
Ông Schneider, giải thích: “Việc thúc đẩy gia nhập thị trường châu Âu đã có thêm động lực kể từ khi Việt Nam bước vào giai đoạn mới của việc áp dụng các hiệp định thương mại tự do”.
Thưc tế, ngay khi Hiệp định Thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA), có hiệu lực từ tháng 8/2020, đã thúc đẩy làn sóng đầu tư từ các công ty châu Âu vào Việt Nam. Ông Schneider nói thêm, rằng: “Hiệp định này đã mở đường cho việc gia tăng thương mại giữa EU và Việt Nam và nhằm mục đích loại bỏ gần 99% thuế hải quan hiện có giữa các quốc gia thành viên”.
Một năm sau khi EVFTA được phê chuẩn, nhà sản xuất quần áo thể thao ngoài trời Spectre của Đan Mạch đã bắt đầu xây dựng nhà máy thứ ba tại tỉnh An Giang với khoản đầu tư khoảng 17 triệu USD, tạo ra khoảng 2500 việc làm tại địa phương này. Năm 2022, thương hiệu trang sức Đan Mạch Pandora tuyên bố họ đang đầu tư 100 triệu USD vào một cơ sở mới ở miền Nam Việt Nam - cơ sở sản xuất đầu tiên của công ty bên ngoài Thái Lan, nơi mà hãng cho biết sẽ tạo ra hơn 6.000 việc làm.
Theo Trung tâm Xúc tiến Nhập khẩu từ các nước đang phát triển (CBI), Việt Nam được xếp hạng là nước xuất khẩu hàng may mặc lớn thứ năm sang EU vào năm ngoái sau Trung Quốc, Bangladesh, Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ, với giá trị xuất khẩu là 4,4 tỷ euro (4,7 tỷ USD).
Việt Nam đã ký kết khoảng 15 hiệp định thương mại tự do, bao gồm Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA), Hiệp định Thương mại Tự do Anh-Việt Nam (UKVFTA) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Nói chung, những điều này đã giúp thúc đẩy đáng kể lĩnh vực sản xuất.
Trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị, những bất ổn của nền kinh tế toàn cầu và sự gián đoạn của chuỗi cung ứng do đại dịch gây ra đã khiến nhiều doanh nghiệp thế giới nhìn Việt Nam bằng con mắt “đầy thiện cảm” và thuận lợi hơn.
Nhà sản xuất TAL Apparel có trụ sở tại Hồng Kông, có khách hàng bao gồm Brooks Brothers, Hugo Boss, Michael Kors, JC Penney và LL Bean, đã vào Việt Nam cách đây 20 năm. Nhưng đến năm 2015, khi công ty mở nhà máy thứ hai tại nước này, Việt Nam đã trở thành cơ sở sản xuất lớn nhất của TAL.
“Nếu bạn nghĩ về vị trí của chúng tôi trước đây, chúng tôi có một phần ba sản lượng ở Trung Quốc, một phần ba ở Malaysia và một phần ba ở Thái Lan… và Indonesia. Họ đều là những quốc gia có chi phí khá cao”, Roger Lee, Giám đốc điều hành của TAL Apparel, cho biết.
“Vì vậy, chúng tôi cần nghĩ xem lĩnh vực tiếp theo mà chúng tôi có thể hướng tới sẽ có chi phí lao động thấp hơn để chúng tôi có khả năng cạnh tranh… Chi phí nhân công ở Trung Quốc đắt gấp ba lần so với ở Việt Nam nên Việt Nam được lợi nhiều về chi phí”, ông Roger Lee thông tin.
Lợi thế chi phí đáng kể cho phép các công ty phân bổ nhiều ngân sách hơn cho các ưu tiên khác như nghiên cứu và phát triển. Điều này giúp giải thích tại sao các công ty thời trang từ các nước châu Á khác cũng đang tăng cường đầu tư vào Việt Nam.
Theo Nikkei Asia, kể từ năm 2022, các công ty Nhật Bản, bao gồm Adastria, Aoyama Trading và Matsuoka Corporation, nhà sản xuất theo hợp đồng cho nhãn hàng Uniqlo của Fast Retailing, đã tăng cường sản xuất tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Năm 2023, Nhật Bản vượt EU trở thành thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai của Việt Nam với kim ngạch khoảng 3 tỷ USD.
Giám đốc TAL Apparel, ông Rogers Lee giải thích, rằng: “Mặc dù Việt Nam chưa đạt đến mức độ tinh vi như Trung Quốc về công nghệ và cơ sở hạ tầng chuỗi cung ứng nhưng lại có lợi thế tương đối ở những mặt khác.Sự khác biệt nằm ở quản lý cấp trung… chúng tôi nhận thấy rằng quản lý cấp trung của Việt Nam rất mạnh mẽ đối với chúng tôi”.
Đáng chú ý, môi trường chính trị và kinh tế ổn định của Việt Nam cũng góp phần tạo niềm tin cho nhà đầu tư. “Việt Nam có tầm nhìn dài hạn về nơi họ muốn đưa nền kinh tế đến. Quốc gia này kiểm soát tỷ lệ lạm phát và kiểm soát tiền lương rất tốt”, ông Lee chia sẻ.
Tăng trưởng GDP ở Việt Nam giảm xuống còn 5,05% trong năm 2023 so với mức 8,02% của năm ngoái, do xuất khẩu giảm. Theo dự báo Capital Economics, tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2024 sẽ quay trở lại mức 6,05%.
Vị trí chiến lược của Việt Nam ở Đông Nam Á mang lại khả năng tiếp cận thuận tiện và tiết kiệm chi phí cho các thị trường khu vực, tăng cường hơn nữa sức hấp dẫn của quốc gia này đối với các công ty đang tìm cách tối ưu hóa dòng nguyên liệu thô và linh kiện cũng như hàng hóa xuất khẩu trong chuỗi cung ứng của họ.
Tăng năng lực sản xuất theo hướng Xanh
Các chuyên gia đã tư vấn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cải thiện tính bền vững của dây chuyền sản xuất để tiếp tục xuất khẩu sang các thị trường phương Tây như châu Âu. Quy định về thiết kế sinh thái cho sản phẩm bền vững (ESPR) của EU, đặt ra các tiêu chuẩn thiết kế tối thiểu cho sản phẩm về khả năng tái chế, độ bền, khả năng tái sử dụng, khả năng sửa chữa và sử dụng các chất độc hại, sẽ có hiệu lực đầy đủ vào năm tới.
Ông Christina Dean, một người ủng hộ thời trang bền vững, người sáng lập tổ chức phi chính phủ Redress có trụ sở tại Hồng Kông, cho biết: “Các nhà tái chế đang chuyển sang Việt Nam vì có nguồn nguyên liệu thô dồi dào. Nhưng những gì bạn cần để có một chuỗi giá trị tái chế phù hợp là nhà tái chế… và nhà kéo sợi để kéo sợi. Trung Quốc, với ngành dệt may và thời trang phát triển hơn nhiều, có công nghệ kéo sợi tiên tiến hơn. Phần đó của chuỗi giá trị không được thiết lập ở Việt Nam như ở Trung Quốc”.
Thị trường Hoa Kỳ cũng ngày càng thách thức. Theo Chủ tịch VITAS, ông Vũ Đức Giang, cho rằng khoảng 80% doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam đang gặp khó khăn với Chính phủ Hoa Kỳ trong việc thực hiện các tiêu chuẩn xanh gần đây.
Tuy nhiên, Việt Nam đã chứng kiến sự chuyển đổi mạnh mẽ của các nhà sản xuất trong nước sang sản xuất dệt may thân thiện với môi trường hơn khi một số nhà sản xuất triển khai các sáng kiến nhằm đáp ứng quy định, tiêu chuẩn xanh toàn cầu.
Tập đoàn Hansae của Hàn Quốc có kế hoạch mở một nhà máy mới sản xuất sợi bông tái chế với nhà sản xuất sợi tròn Recover ở miền Nam Việt Nam. Tập đoàn này đã ký thỏa thuận với công ty con của Tập đoàn Dệt May Việt Nam để phát triển mạng lưới phân phối toàn diện từ sợi đến dệt, nhuộm và may, hoàn toàn dành cho hàng tái chế.
Hansae, có các khách hàng toàn cầu bao gồm Gap, H&M và Zara, có cơ sở sản xuất ở nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, điều hành 10 tập đoàn và 12 nhà máy của Việt Nam, tuyển dụng khoảng 25.000 lao động trên toàn quốc.
Còn tại Saitex, nhà sản xuất vải denim có trụ sở tại Việt Nam, có Everlane, J.Crew và Target là những khách hàng của mình, được biết đến với các chứng chỉ về tính bền vững. Tuy nhiên, ngay cả khi là một công ty B-Corp được đánh giá là có thành tích tương đối cao so với một số chỉ số nhất định, Saitex vẫn gặp khó khăn trong việc xây dựng danh tiếng của mình. Năm ngoái, khoảng 300 công nhân đã đình công sau khi bị phạt vì những sai sót dẫn đến lỗi sản phẩm.
Nhưng mỗi thị trường tìm nguồn cung ứng đều có những thách thức, rào cản và nhược điểm riêng của nó, ông Rogers Lee gợi ý, và cho biết “các quốc gia khác nhau có những rủi ro khác nhau, và từ thực tế của đại dịch đã dạy chúng tôi rằng đa nguồn cung ứng là con đường phía trước”.
Thực tế, ngay cả với tất cả thế mạnh của Việt Nam, việc các công ty may mặc và da giày bỏ hết trứng vào một giỏ là quá rủi ro, ông Lee cảnh báo. “Khoảng 65% sản phẩm chúng tôi tạo ra là từ Việt Nam. Nếu có thể, tôi sẽ đạt được 80 hoặc 90%. Nhưng sẽ có một số rủi ro”.
Rogers cho biết sản xuất tại Việt Nam có thể sẽ tiếp tục mở rộng trong 5 năm tới, nhưng những thách thức mới có thể xuất hiện khi chi phí tăng và lợi thế của quốc gia này so với các nước đối thủ cạnh tranh bị xói mòn.
Do đó, Chủ tịch Hiệp hội May mặc và Giày dép Hoa Kỳ, , ông Steve Lamar gợi ý, rằng: “Giống như tất cả các địa chỉ tìm nguồn cung ứng lớn, Việt Nam cần liên tục đánh giá lợi thế cạnh tranh của mình là gì. Theo ông Lamar, “Việt Nam cần ưu tiên khả năng hỗ trợ một ngành công nghiệp theo chiều dọc hơn, đặc biệt khi các công ty đang tìm cách đa dạng hóa các nhà cung cấp cấp hai và cấp ba từ Trung Quốc, cũng như các hoạt động bền vững, chẳng hạn như sử dụng nhiều hơn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và gió”.
“Áp lực cạnh tranh này sẽ chỉ gia tăng khi các thương hiệu và nhà bán lẻ cũng đang tìm cách đầu tư vào địa điểm tìm nguồn cung ứng mới…trên khắp châu Á, châu Phi và Tây Bán cầu. Mặc dù động lực đó sẽ không ảnh hưởng đến Việt Nam trong ngắn hạn nhưng nó có thể đặt ra những thách thức cạnh tranh đáng kể trong trung và dài hạn”, ông Lamar chia sẻ.
Thái Đạt