Vì sao việc phát hiện, ngăn chặn sở hữu chéo ngân hàng gặp nhiều khó khăn?
Một vài năm trở lại đây, hiện tượng sở hữu chéo ngân hàng đang có dấu hiệu gia tăng, với nhiều phương thức tinh vi nhằm qua mắt cơ quan quản lý. Chính Ngân hàng Nhà nước cũng thừa nhận việc ngăn chặn tình trạng này đang gặp nhiều khó khăn.
Sở hữu chéo là hiện tượng ngân hàng này nắm giữ cổ phần tại một tổ chức tín dụng khác. Nhưng thực tế, nhiều trường hợp một nhóm cổ đông liên kết với nhau để nắm trên 51% cổ phần, từ đó thao túng hoạt động ngân hàng.
Điều này có thể thấy rõ qua vụ án Vạn Thịnh Phát.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Trương Mỹ Lan là Chủ tịch của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát gồm một tập hợp các Công ty con, Công ty liên kết. Để có nguồn vốn lớn phục vụ hoạt động của hệ thống Công ty, Trương Mỹ Lan đã tìm cách thâu tóm, chi phối, điều hành toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng SCB trong đó có hoạt động cho vay.
Cụ thể, trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến tháng 10/2022, Trương Mỹ Lan đã thâu tóm, nắm giữ trên thực tế số lượng cổ phần gần tuyệt đối của Ngân hàng SCB (từ 85% đến 91,5% cổ phần), qua đó trở thành cổ đông có “quyền lực" để chỉ đạo, điều hành, thực chất là thao túng toàn bộ hoạt động của Ngân hàng SCB, phục vụ cho các mục đích khác nhau của mình.
Trương Mỹ Lan cùng nhiều đồng phạm đã thực hiện một chuỗi hành vi gồm: tuyển chọn, bố trí nhân sự thân tín của mình vào các vị trí chủ chốt tại Ngân hàng SCB; thành lập một số đơn vị thuộc Ngân hàng SCB chuyên trách cho vay, giải ngân theo yêu cầu của Trương Mỹ Lan.
Bà ta còn thành lập, sử dụng hàng ngàn công ty “ma”, thuê nhiều cá nhân; câu kết với các cá nhân đứng đầu nhiều doanh nghiệp liên quan để thực hiện tội phạm; thông đồng với nhiều công ty thẩm định giá để nâng khống giá trị tài sản bảo đảm.
Bị can này cũng tạo lập số lượng rất lớn hồ sơ vay vốn khống để rút tiền từ Ngân hàng SCB; lập phương án rút tiền, “cắt đứt” dòng tiền sau giải ngân; bán nợ xấu, bán các khoản cấp tín dụng trả chậm để giảm dư nợ tín dụng, giảm nợ xấu, để che giấu sai phạm; mua chuộc, tác động người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước làm trái công vụ.
Từ đó, Trương Mỹ Lan và đồng phạm, với những vị trí, vai trò khác nhau, thực hiện nhiều tội phạm xâm phạm về sở hữu, xâm phạm hoạt động của Ngân hàng, hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước, trong đó nhiều tội phạm được thực hiện dưới dạng đồng phạm có tổ chức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, chiếm đoạt và gây thiệt hại số tiền đặc biệt lớn.
Viện kiểm sát cho biết, có đủ căn cứ xác định từ ngày 1/1/2012 đến ngày 17/10/2022 Trương Mỹ Lan và đồng phạm đã gây thiệt hại cho Ngân hàng SCB số tiền đặc biệt lớn 677.286 tỉ đồng. Đây chính là hậu quả thiệt hại của vụ án do hành vi phạm tội của bị cáo Trương Mỹ Lan gây ra.
Theo Viện Nghiên cứu bất động sản Việt Nam (VIRES), một trong những vấn đề cần giải quyết then chốt của hệ thống tín dụng, đó là tình trạng “sở hữu chéo”.
VIRES phân tích: Trên thực tế, tình trạng sở hữu chéo giữa hệ thống tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp trong lĩnh vực có độ rủi ro cao với biểu hiện thao túng dòng chảy tín dụng, rót vốn vào “sân sau”, sử dụng vốn sai mục đích đang có tác động xấu đến chất lượng tín dụng, làm gia tăng rủi ro hệ thống.
Theo đơn vị này, trình trạng sở hữu chéo có thể khiến dòng chảy tín dụng (huy động trong ngắn hạn) bị hướng vào những doanh nghiệp rủi ro, không có năng lực trở nợ, trong khi những doanh nghiệp chân chính muốn vay nhưng không tiếp cận được.
Liên quan tới công tác phát hiện, ngăn ngừa và xử lý tình trạng sở hữu chéo ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước thừa nhận đang gặp nhiều khó khăn.
Theo Ngân hàng Nhà nước, việc sở hữu chéo liên quan đến nhiều đối tượng thuộc sự quản lý của các bộ, ngành. Tuy nhiên, đối tượng quản lý của Ngân hàng Nhà nước hiện chỉ dừng lại ở các tổ chức tín dụng. Vì thế đối với việc sở hữu giữa các công ty trong lĩnh vực khác, Ngân hàng Nhà nước không nắm được thông tin cũng như công cụ để kiểm soát.
Ngân hàng Nhà nước đánh giá việc kiểm soát sở hữu chéo giữa các công ty ngoài ngành với ngân hàng rất khó khăn trong trường hợp cổ đông lớn và người có liên quan của cổ đông lớn cố tình che giấu, nhờ cá nhân hoặc tổ chức khác đứng tên hộ số cổ phần sở hữu để lách quy định của pháp luật. Điều này dẫn tới tiềm ẩn nguy cơ hoạt động thiếu công khai, minh bạch.
Đồng thời, việc này chỉ có thể được phát hiện và nhận diện thông qua công tác điều tra, xác minh của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.
Chưa kể việc phát hiện mối liên quan giữa các doanh nghiệp còn hạn chế do thông tin để xác định tính liên quan về sở hữu của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp không phải là công ty đại chúng rất khó khăn.
Ngân hàng Nhà nước cũng thừa nhận đang bị động trong việc tra cứu thông tin cũng như xác định độ chính xác, tin cậy của các nguồn thông tin trong bối cảnh thị trường chứng khoán, công nghệ phát triển nhanh như hiện nay.
Riêng với công tác thanh tra công ty tài chính tiêu dùng lại gặp vấn đề đặc thù là hoạt động chủ yếu cho vay nhóm khách hàng có thu nhập thấp hoặc không ổn định.
"Khoản vay thì giá trị nhỏ, mục đích vay để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày vì thế các công ty tài chính chủ yếu ứng dụng phương thức điện tử đối với hoạt động cấp tín dụng trước, trong và sau cho vay.
Tuy nhiên, hiện khung khổ pháp lý điều chỉnh các hành vi liên quan đến hoạt động trước trong và sau cho vay của công ty tài chính bằng phương tiện điện tử chưa được hoàn chỉnh đồng bộ", Ngân hàng Nhà nước cho biết.
Để giải quyết những tồn đọng và vướng mắc trên, trong năm 2024, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục thanh tra về vốn, tình hình sở hữu cổ phần, hoạt động cho vay, đầu tư, góp vốn, hoạt động chuyển nhượng, sở hữu cổ phần, cổ phiếu có thể dẫn đến việc thâu tóm, chi phối các ngân hàng.
Nếu phát hiện rủi ro, vi phạm, Ngân hàng Nhà nước sẽ xử lý; trường hợp có dấu hiệu của tội phạm, xem xét chuyển cơ quan công an điều tra, làm rõ hành vi.
H.A