Thị trường thép ảm đạm, nhiều doanh nghiệp có kết quả kinh doanh sa sút
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, sản xuất thép thành phẩm đạt 13,103 triệu tấn, giảm 20,9% so với cùng kỳ năm 2022. Tiêu thụ thép thành phẩm đạt 12,481 triệu tấn, giảm 17,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo số liệu báo cáo mới nhất vừa được Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) công bố, trong tháng 6/2023, sản xuất thép thành phẩm đạt 2,012 triệu tấn, giảm 9,52% so với tháng 5/2023 và giảm 16,2% so với cùng kỳ 2022. Tiêu thụ thép các loại đạt 2,161 triệu tấn, giảm 6,41% so với tháng trước và giảm 4% so với cùng kỳ 2022;
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, sản xuất thép thành phẩm đạt 13,103 triệu tấn, giảm 20,9% so với cùng kỳ năm 2022. Tiêu thụ thép thành phẩm đạt 12,481 triệu tấn, giảm 17,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Về tình hình xuất khẩu các sản phẩm thép, trong tháng 5/2023 đạt khoảng 1,133 triệu tấn thép tăng 16,43% so với tháng 4/2023 và tăng 52,6% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu đạt hơn 931 triệu USD tăng 14,53% so với tháng trước và tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 4,383 triệu tấn thép tăng 10,12% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu đạt 3,448 tỷ USD giảm 16,21% so với cùng kỳ năm 2022.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2023 là: khu vực ASEAN (34,76%), Khu vực EU (24,68%), Hoa Kỳ (6,77%), Ấn Độ (4,72%) và Brazil (3,36%).
Từ chiều ngược lại, nhập khẩu thép thành phẩm các loại về Việt Nam trong tháng 5/2023 đạt hơn 837 ngàn tấn với trị giá hơn 772 triệu USD, giảm lần lượt 18,92% về lượng và 13,54% về giá trị so với tháng 4/2023; so với cùng kỳ năm 2022 giảm lần lượt 34,54% về lượng và 45,01% về giá trị so với cùng kỳ 2022.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, nhập khẩu thép thành phẩm các loại về Việt Nam khoảng 4,606 triệu tấn với trị giá hơn 3,934 tỷ USD, giảm 12,33% về lượng và giảm 29,61% về giá trị.
Đối với tình hình thị trường nguyên liệu sản xuất thép, báo cáo của VSA cho thấy, giá quặng sắt ngày 6/7/2023 giao dịch ở mức 112 USD/tấn CFR cảng Thiên Tân, Trung Quốc, tăng không đáng kể, xấp xỉ 1% so với thời điểm đầu tháng 6/2023. Bình quân giá quặng sắt quý 2/2023 là khoảng 113 USD/tấn, giảm 11% so với quý 1/2023 và giảm 19% so với cùng kỳ năm 2022. Như vậy, 6 tháng đầu năm 2023, giá quặng sắt bình quân là 118.3 USD/tấn, giảm 15% so với cùng kì năm 2022.
Giá than mỡ luyện cốc xuất khẩu tại cảng Australia ngày 6/7/2023 giao dịch ở mức khoảng 230 USD/tấn FOB, tương đương mức giá giao dịch so với đầu tháng 6/2023.
Bình quân quý 2/2023, giá than mỡ luyện cốc giao dịch ở mức 243,8 USD/tấn, giảm 29% so với mức giá bình quân quý 1/2023 và giảm 45% so với cùng kỳ 2022. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, mức giá giao dịch bình quân đạt 293,6 USD/tấn, giảm 36,9% so với cùng kỳ năm trước.
Giá thép phế liệu giao dịch cảng Đông Á ngày 6/7/2023 ở mức 375 USD/tấn, giảm 4% so với đầu tháng 6/2023. Như vậy, nửa đầu năm 2023, giá thép phế liệu giao dịch cảng Đông Á bình quân đạt 421 USD/tấn, giảm 22,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Giá thép cuộn cán nóng (HRC) ngày 6/7/2023 ở mức 571 USD/tấn, CFR Việt Nam, giảm 35USD/tấn so với giá giao dịch đầu tháng 6/2023. Nhìn chung, thị trường thép cán nóng (HRC) thế giới biến động, khiến thị trường HRC trong nước khó khăn do các doanh nghiệp sản xuất thép dẹt (CRC, tôn mạ, ống thép…) sử dụng HRC làm nguyên liệu sản xuất.
Nguyên nhân khiến sản xuất và tiêu thụ thép ảm đạm là do cầu thị trường xuống thấp. Đối với thị trường trong nước, hoạt động bán hàng chịu tác động mạnh từ thị trường bất động sản đóng băng bởi các chính sách tín dụng bất động sản siết chặt; thị trường trái phiếu doanh nghiệp gặp khó khăn, lãi suất tăng cao… Thị trường xây dựng dân dụng đối mặt với sức mua yếu do lạm phát.
VSA cho hay, năm 2023, sản xuất thép của Việt Nam sẽ tăng khoảng 2-3% so với năm 2022, đáp ứng đủ nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu một phần ra nước ngoài. Tuy nhiên, do nhu cầu thép yếu tại hầu hết các khu vực trên thế giới và tâm lý tiêu cực đã tác động đến giá bán thép thành phẩm. Xu hướng giảm giá thép trên phạm vi toàn cầu càng được củng cố thêm khi các doanh nghiệp thép Trung Quốc đang tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu với tốc độ giá giảm nhanh để cạnh tranh.
Thị trường của ngành thép bị ảnh hưởng cũng là nguyên nhân khiến kết quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trong ngành bị ảnh hưởng. Mới nhất, Công ty CP Thép Thủ Đức công bố kết quả kinh doanh quý II với khoản lỗ sau thuế 2,7 tỷ đồng, sa sút so với kết quả kinh doanh lãi 4,3 tỷ đồng của quý I/2023. Lũy kế 6 tháng đầu năm nay, Thép Thủ Đức đạt doanh thu thuần 571 tỷ đồng và lãi ròng 1,6 tỷ đồng, giảm tương ứng 49% và 73% so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi đó, báo cáo tài chính hợp nhất quý II/2023 của Công ty CP Gang thép Thái Nguyên (Tisco) cũng đối mặt với sụt giảm với doanh thu thuần đạt 1.946 tỷ đồng, giảm 39% so với cùng kỳ, lợi nhuận gộp âm 24 tỷ đồng trong khi cùng kỳ lãi 78 tỷ.
Luỹ kế 6 tháng 2023, Tisco đạt doanh thu 4.392 tỷ đồng, giảm 37% so với cùng kỳ. Giá vốn giảm ít hơn cộng với việc các chi phí tài chính và chi quản lý doanh nghiệp đều tăng mạnh khiến doanh nghiệp lỗ trước thuế 117 tỷ đồng và lỗ sau thuế gần 118 tỷ đồng.
CTCP Thép Vicasa - VNsteel (Mã VCA) cũng vừa công bố kết quả kinh doanh quý 2/2023 với doanh thu thuần giảm 29% so với cùng kỳ còn 358,3 tỷ. Giá vốn bán hàng tăng cao khiến lợi nhuận gộp chỉ vỏn vẹn 8,5 tỷ đồng. Trong kỳ, chi phí tài chính và chi phí bán hàng đều giảm đáng kể trong khi chi phí quản lý doanh nghiệp tăng gần 15,5 tỷ nên sau cùng lợi nhuận ròng của VCA chỉ đạt 880 triệu đồng - tích cực hơn mức 0,5 tỷ của cùng kỳ. Dù vậy, lợi nhuận quý này đã giảm lần lượt 83,5% và 87% so với 2 quý liền trước.
Lũy kế nửa đầu năm, Thép Vicasa - VNsteel ghi nhận doanh thu gần 865 tỷ đồng và lãi sau thuế 6,2 tỷ, giảm 36% và 34% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, công ty đã thực hiện được 65% chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế.
Anh Đào