Ngành than với mục tiêu phát triển bền vững
Là ngành sản xuất quan trọng, thời gian qua, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng đổi mới công nghệ khai thác nhằm tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, nâng cao giá trị sản phẩm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Tăng tái chế nước thải
Đối với nước thải, trung bình những năm gần đây, các mỏ than trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xả ra sông suối từ 120 -150 triệu m3 nước đã qua xử lý. Trong số nước này chỉ có một phần nhỏ được tái sử dụng, gây lãng phí tài nguyên nước. Do đó, tái sử dụng nước thải mỏ phục vụ cho sinh hoạt đang là vấn đề mà tỉnh và ngành than quan tâm hiện nay.
Để tái chế nước thải sau sản xuất, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã chỉ đạo các đơn vị, trong đó chủ chốt là Công ty TNHH MTV Môi trường TKV, tích cực phối hợp cùng Sở Tài nguyên và Môi trường, các đơn vị đầu ngành trong và ngoài nước tiến hành nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật, khoa học, công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nước thải sau xử lý tại các Trạm xử lý nước thải mỏ. Cùng với đó, đầu tư thêm hệ thống xử lý nước cấp tại các Trạm xử lý nước thải mỏ để tiếp tục xử lý giai đoạn hai, tiến tới đạt tiêu chuẩn nước cấp sinh hoạt, từ đó quay lại phục vụ cho chính các mỏ than và các hộ lân cận; đồng thời tiếp tục nghiên cứu các phương án, giải pháp đấu nối nguồn nước đã xử lý vào các hệ thống hồ chứa nước của tỉnh theo từng giai đoạn.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 42 trạm xử lý nước thải mỏ do Công ty TNHH MTV Môi trường TKV quản lý, vận hành, với tổng lượng nước xử lý hằng năm từ 120-150 triệu m3 nước. Nước thải mỏ được xử lý đều đạt loại A, loại B theo quy chuẩn về môi trường và được quản lý nghiêm ngặt thông qua hệ thống quan trắc môi trường tự động.
Xác định đây nhiệm vụ bảo vệ nguồn tài nguyên là rất quan trọng, giúp giảm chi phí sản xuất, bảo vệ tài nguyên nước, Công ty TNHH MTV Môi trường TKV đã phối hợp cùng Công ty CP Than Mông Dương cũng như một số đơn vị khác trong Tập đoàn thực hiện các công đoạn xử lý để tái sử dụng nước thải mỏ phục vụ cho hoạt động sàng tuyển, phun sương dập bụi, vệ sinh thiết bị, tắm giặt.
Thay vì sử dụng nguồn nước tự nhiên để phục vụ sản xuất than, nhiều năm nay, đơn vị đã tận dụng lại nguồn nước thải mỏ để phục vụ cho các hoạt động sản xuất và một số công tác phụ trợ khác. Nước thải mỏ sau khi xử lý đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật, nước thải đạt loại B về nước thải công nghiệp và có thể xả ra môi trường. Điều này vừa giúp giảm chi phí, vừa bảo vệ được tài nguyên nước.
Thời gian tới Công ty TNHH MTV Môi trường TKV sẽ tiếp tục nghiên cứu các giải pháp cụ thể, hiệu quả và triển khai sâu rộng nội dung Đề án “Đảm bảo an ninh nguồn nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, trong giai đoạn 2026-2030” đến các đơn vị trong toàn Tập đoàn. Cùng với đó, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam sẽ tăng cường phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường cũng như các đơn vị có liên quan triển khai các phương án, giải pháp đấu nối nguồn nước thải mỏ sau xử lý tại các Trạm xử lý nước thải mỏ khu vực thành phố Cẩm Phả về Nhà máy xử lý nước sạch trong khu vực để tiếp tục xử lý thành nước cấp sinh hoạt cho các hộ sử dụng hoặc để phục vụ tưới cây, rửa đường…
Đầu tư công nghệ, tăng chế biến sâu
Nhằm phát triển ngành than bền vững, tiết kiệm than trong quá trình sản xuất, đồng thời tăng cường chế biến sâu, tái chế, ngành than đã tiếp tục đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa trong khai thác than để thay đổi cơ bản hạ tầng công nghệ theo hướng hiện đại, TKV chỉ đạo các đơn vị khối sản xuất than hầm lò và lộ thiên tăng cường đầu tư máy móc, thiết bị theo hướng đồng bộ, tiến dần đến tự động hóa hoàn toàn dây chuyền sản xuất, tiết kiệm nguồn than, giảm phát thải ra môi trường.
Trong các mỏ hầm lò, những dây chuyền đồng bộ không chỉ giúp các mỏ tăng năng suất, tăng sản lượng, mà còn tận thu tài nguyên hiệu quả. Suất tiêu hao gỗ chống lò trong các lò chợ giảm từ 50m3/1.000 tấn than xuống 14m3/1.000 tấn than. Công tác thông gió trong các mỏ hầm lò ngày càng được quan tâm, gió sạch được đưa xuống tận những tầng than sâu nhất. Các hệ thống phun sương dập bụi cũng được lắp đặt với mật độ lớn tại hầu hết vị trí dễ phát tán bụi.
Trên các khai trường lộ thiên, hệ thống xe ô tô trọng tải lớn 90-100 tấn được đầu tư ngày một nhiều, nhằm giảm số lượng xe lưu thông trên đường mỏ, giảm tình trạng phát tán bụi trong quá trình vận tải. Các thiết bị xúc bốc công suất lớn cũng được đầu tư để đồng bộ hạ tầng kỹ thuật khai thác, tăng năng suất, tiết kiệm nhiên liệu, hạn chế khí thải ra môi trường.
Cùng chung tay với các cơ quan, ban, ngành trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, các doanh nghiệp ngành than cũng đã và đang nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để bảo đảm nguồn an ninh nguồn nước, đáp ứng đủ số lượng nước cần thiết phục vụ sản xuất cũng như nghiên cứu tái sử dụng nước thải hiệu quả để tiết kiệm chi phí sản xuất.