Hóa đơn điện tử là “đột phá khẩu” giúp thay đổi căn bản toàn diện phương thức quản lý thuế điện tử
Có thể khẳng định sau gần 4 năm triển khai, hóa đơn điện tử đã góp phần quan trọng trong thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi phương thức quản lý, sử dụng hóa đơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp giảm chi phí, tăng năng suất hoạt động của doanh nghiệp.
Dữ liệu hóa đơn điện tử được định dạng theo chuẩn của cơ quan thuế nên có thể hỗ trợ nhận và xử lý tự động vào hệ thống của người mua, người bán sau khi giao dịch, giúp giảm thời gian và nguồn lực xử lý dữ liệu thủ công.
Yêu cầu cấp thiết triển khai hóa đơn điện tử
Từ ngày 01/01/1999, khi Luật Thuế GTGT số 02/1997/QH9 có hiệu lực thi hành, Việt Nam đã áp dụng hai loại hóa đơn là hóa đơn giá trị gia tăng và hóa đơn bán hàng. Trong thời gian này, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp (DN) chủ yếu sử dụng hóa đơn giấy do ngành Thuế phát hành.
Ngày 14/5/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP với mục tiêu chuyển đổi phương thức phát hành, quản lý hóa đơn từ cơ chế “DN mua hóa đơn của cơ quan thuế” sang “DN tự đặt in, tự in hóa đơn hoặc sử dụng HĐĐT nếu đủ điều kiện”. Theo đó, NNT được tạo điều kiện linh hoạt hơn trong việc thiết kế, tạo lập hóa đơn tương ứng với đặc điểm ngành hàng kinh doanh và chủ động về số lượng hóa đơn sử dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng hóa đơn giấy cũng có nhiều bất cập đối với công tác vận chuyển, bảo quản, lưu trữ hóa đơn của DN và công tác quản lý của cơ quan thuế.
Với việc triển khai “Hệ thống hóa đơn điện tử - giải pháp góp phần thúc đẩy chuyển đổi số”, Tổng cục Thuế đã được vinh danh ở hạng mục “Cơ quan nhà nước chuyển đổi số xuất sắc” tại Lễ trao Giải thưởng chuyển đổi số Việt Nam năm 2022 - Vietnam Digital Awards 2022 (VDA 2022). |
Vì vậy, ngày 14/3/2011, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 32/2011/TT-BTC hướng dẫn về khởi tạo, phát hành và sử dụng hóa đơn điện tử (HĐĐT) bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Việc này đánh dấu những bước đầu tiên trong việc áp dụng HĐĐT. DN có thể sử dụng HĐĐT theo Thông tư số 32 khi thực hiện giao dịch giữa người mua và người bán (không phải gửi đến cơ quan thuế). Mặc dù, việc triển khai HĐĐT theo Thông tư 32 đã tạo thuận lợi cho DN khi thực hiện các giao dịch giữa người mua và người bán nhưng vẫn còn những bất cập trong công tác quản lý của cơ quan thuế do không có dữ liệu về hóa đơn.
Đến ngày 13/6/2019, Quốc hội đã ban hành Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 trong đó bổ sung quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử với nguyên tắc khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập HĐĐT để giao cho người mua theo định dạng chuẩn dữ liệu của cơ quan thuế.
Theo đó, Tổng cục Thuế đã tham mưu trình Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định toàn bộ DN, tổ chức kinh tế, hộ, cá nhân kinh doanh sử dụng HĐĐT kể từ ngày 01/07/2022. Đây là các văn bản pháp quy có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc chuyển đổi phương thức quản lý, sử dụng hóa đơn, giúp tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân nộp thuế, từ đó thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử (TMĐT), kinh doanh trên nền tảng số phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới.
Qua nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm của các nước cho thấy, HĐĐT đã và đang được áp dụng, mở rộng tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của TMĐT và nền kinh tế số hiện nay.
Cụ thể, Đan Mạch áp dụng bắt buộc HĐĐT trong giao dịch giữa các DN từ năm 2005, Singapore năm 2008, Brazil năm 2010, Phần Lan năm 2010, Hy Lạp năm 2012, Italia năm 2019,… với 3 phương thức chính gồm HĐĐT trao đổi giữa người bán, người mua (không liên quan đến cơ quan thuế); HĐĐT được gửi toàn bộ hoặc một phần đến cơ quan thuế và HĐĐT có mã của cơ quan thuế.
Lộ trình và phương thức áp dụng HĐĐT của mỗi quốc gia tùy thuộc vào mục tiêu cải cách thuế, bối cảnh và thực tế quản lý thuế của quốc gia đó nhưng nhìn chung đều được triển khai từng bước để thúc đẩy dần sự chuyển đổi từ hóa đơn giấy sang HĐĐT, cải thiện dịch vụ đối với người nộp thuế và phòng chống gian lận thuế.
Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, ngành Thuế rất cần có sự chung tay của các bộ, ngành, cộng đồng DN và người dân trên cả nước góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của lĩnh vực kinh tế - tài chính số
Triển khai bài bản, khoa học
Căn cứ kết quả triển khai thí điểm và tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, ngành Thuế đã nghiên cứu, xây dựng hệ thống HĐĐT trên nền tảng công nghệ 4.0, áp dụng công nghệ dữ liệu lớn (Big Data), phù hợp với yêu cầu về xử lý số lượng lớn lên đến hàng trăm triệu giao dịch trên 01 ngày với tốc độ xử lý tối đa dưới 01 giây cho 01 hóa đơn.
Ngành Thuế đã tổ chức triển khai HĐĐT theo lộ trình 02 giai đoạn: (i) Triển khai thí điểm giai đoạn 1 tại địa bàn 6 tỉnh, thành phố (gồm TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Định, Phú Thọ) từ ngày 21/11/2021; (ii) Triển khai giai đoạn 2 tại địa bàn 57 tỉnh, thành phố còn lại từ tháng 4/2022.
Kết quả tính đến hết năm 2024, hệ thống HĐĐT của cơ quan thuế đã tiếp nhận 11,8 tỷ hóa đơn bao gồm 2,8 tỷ hóa đơn có mã, 7,6 tỷ hóa đơn không mã và 1,4 tỷ hóa đơn khởi tạo từ máy tính tiền.
Có thể khẳng định, việc triển khai HĐĐT đã mang lại hiệu quả cho DN, NNT, cơ quan thuế và toàn xã hội. Trong đó, việc áp dụng HĐĐT đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi phương thức quản lý, sử dụng hóa đơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp giảm chi phí, tăng năng suất hoạt động của DN. Dữ liệu HĐĐT được định dạng theo chuẩn của cơ quan thuế nên có thể hỗ trợ nhận và xử lý tự động vào hệ thống của người mua, người bán sau khi giao dịch, giúp giảm thời gian và nguồn lực xử lý dữ liệu thủ công.
Đồng thời, HĐĐT đã góp phần chuyển đổi cách thức phục vụ người dân, phương thức quản lý, tổ chức thực hiện của cơ quan nhà nước theo hướng tự động nhằm cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho DN và ngăn chặn kịp thời hóa đơn của các DN bỏ trốn, mất tích, ngăn chặn tình trạng gian lận thuế, trốn thuế,...
Một điểm đáng chú ý, đó là HĐĐT đã có tác động mạnh trong tiết giảm chi phí xã hội, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân nộp thuế, từ đó đẩy mạnh sự phát triển TMĐT, kinh doanh trên nền tảng số phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới và đặc biệt là việc triển khai HĐĐT đã góp phần lớn trong việc đảm bảo nhiệm vụ thu ngân sách hàng năm của ngành Thuế.
Đối với ngành Thuế, trong năm 2024, cơ quan thuế các cấp đã tiếp tục tăng cường công tác quản lý, sử dụng HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền và HĐĐT đối với hoạt động kinh doanh, bán lẻ xăng dầu như: Tổ chức tuyên truyền, hỗ trợ các DN áp dụng HĐĐT; phối hợp với các tổ chức cung cấp dịch vụ HĐĐT, các đơn vị thuộc các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố đẩy mạnh triển khai áp dụng HĐĐT trong hoạt động kinh doanh, bán lẻ xăng dầu đã xuất HĐĐT theo từng lần bán hàng.
Hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân, DN thực hiện nghĩa vụ với NSNN, đóng góp chung vào công cuộc chuyển đổi số của quốc gia
Thay đổi phương thức quản lý thuế điện tử
Bên cạnh đó, ngành Thuế cũng đã triển khai nhiều giải pháp CNTT phục vụ công tác quản lý rủi ro về hóa đơn nhằm phát hiện, xử lý nhanh chóng các trường hợp mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp như triển khai chức năng đối chiếu dữ liệu HĐĐT với tờ khai thuế GTGT về doanh thu, số thuế mua vào/bán ra để hỗ trợ cơ quan thuế kiểm soát DN ngay từ khâu kê khai, nộp thuế.
Song song với đó, Tổng cục Thuế đã triển khai nâng cấp một loạt các ứng dụng quản lý hóa đơn và quản lý rủi ro, như: (i) triển khai ứng dụng phân tích rủi ro đáp ứng Bộ tiêu chí quản lý rủi ro hóa đơn theo quyết định số 78/QĐ-TCT ngày 02/02/2023; (ii) nâng cấp, bổ sung chức năng phân tích, xác định các giao dịch bất thường, xuất khống hóa đơn nhằm cảnh báo sớm các trường hợp có dấu hiệu vi phạm; (iii) bước đầu ứng dụng trí tuệ nhân (AI) trong việc truy vết, xác định chuỗi liên kết mua bán của DN theo các loại hàng hóa giao dịch, từ đó xác định các DN có hành vi gian lận, chiếm đoạt hoàn thuế giá trị gia tăng bằng các mua bán quay vòng hàng hóa hoặc các trường hợp mua bán sử dụng hóa đơn bất hợp pháp;…
Trong thời gian tới, để phát huy hiệu quả của việc triển khai HĐĐT, ngành Thuế tiếp tục triển khai nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, phần mềm ứng dụng đáp ứng yêu cầu triển khai mở rộng HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền và đẩy mạnh việc cung cấp giải pháp HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền trên nền tảng di động cho các cá nhân, tổ chức, DN.
Đồng thời, ngành Thuế đã tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và xây dựng cơ sở dữ liệu lớn (Big Data) vào công tác hỗ trợ NNT, quản lý nợ thuế, phân loại hồ sơ hoàn thuế... kết nối, trao đổi với các bộ, ngành và dữ liệu tích hợp từ các CSDL quốc gia góp phần ngăn chặn, phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hóa đơn; quản lý thuế đối với các sàn TMĐT chặt chẽ, đảm bảo thu đúng, thu đủ, công bằng, minh bạch theo đúng quy định pháp luật thuế của Việt Nam.
Thành công trong triển khai HĐĐT là bước đệm quan trọng để ngành Thuế đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số với những bước tiến vượt bậc trong việc nghiên cứu phát triển và đưa vào ứng dụng trong thực tiễn các giải pháp quản lý công nghệ hiện đại như triển khai dịch vụ thuế điện tử; triển khai tích hợp hệ thống với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cưphù hợp với xu hướng thế giới phục vụ, tạo thuận lợi cho NNT.
Với việc triển khai mạnh mẽ chuyển đổi số trong toàn ngành, từng bước tích hợp đưa toàn bộ hoạt động quản lý thuế lên môi trường số, cung cấp dịch vụ thuế dựa trên công nghệ số và dữ liệu số, có thể khẳng định việc áp dụng HĐĐT chính là “đột phá khẩu” giúp ngành Thuế căn bản thay đổi toàn diện phương thức quản lý trên nền tảng thuế điện tử hiện đại để đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong bối cảnh kinh tế số, từ đó cụ thể hóa Chiến lược phát triển hệ thống thuế giai đoạn 2021-2030.
Hiện nay, kinh tế số - tài chính số ở Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và toàn diện trên nhiều ngành, lĩnh vực. Để có thể làm tốt các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, ngành Thuế rất cần có sự chung tay của các bộ, ngành, cộng đồng DN và người dân trên cả nước góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của lĩnh vực kinh tế - tài chính số nói chung theo hướng minh bạch, bền vững, vì sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.
Bùi Dương