4 lý do khiến lãi vay vẫn ở mức cao
Ngân hàng Nhà nước cho biết, để giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp và người dân, qua đó góp phần thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Thời gian qua NHNN đã điều hành và kết hợp đồng bộ nhiều công cụ, giải pháp chính sách tiền tệ để triển khai định hướng này.
Theo đó, từ đầu năm 2023 đến nay, NHNN điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở nhằm ổn định thị trường tiền tệ. Theo đó, NHNN liên tục duy trì các phiên chào mua giấy tờ có giá (GTCG) với khối lượng, kỳ hạn phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), đảm bảo thanh khoản cho các TCTD luôn trong trạng thái dư thừa, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi trả, thanh toán của nền kinh tế.
Từ ngày 10/3/2023, để thực hiện mục tiêu tăng cung tiền, giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng và kéo dài kỳ hạn chào mua GTCG hàng ngày để phát tín hiệu sẵn sàng cung ứng vốn cho thị trường tiền tệ.
Với việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và sẵn sàng cung ứng thanh khoản kết hợp với việc NHNN điều chỉnh giảm lãi suất chào mua GTCG từ mức 6,0%/năm xuống mức 5,5%/năm (từ ngày 15/3/2023) và giảm xuống mức 5,0%/năm (từ ngày 03/4/2023), vốn khả dụng của các TCTD được đảm bảo và thường trong tình trạng dư thừa (số dư tiền gửi của hệ thống TCTD tại NHNN liên tục vượt số dư dự trữ bắt buộc).
Song song với việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, từ đầu năm 2023 đến nay, NHNN đã mua được lượng lớn ngoại tệ bổ sung Dự trữ ngoại hối (trên 6 tỷ USD).
Dù ngành Ngân hàng đã và đang liên tiếp điều chỉnh giảm lãi suất, tuy nhiên, các ý kiến trên thị trường cho rằng, lãi suất cho vay hiện nay vẫn neo ở mức cao, cần tiếp tục điều chỉnh giảm để hỗ trợ nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Vậy, đâu là những nguyên nhân dẫn đến lãi suất cho vay cao như thị trường đề cập?
Để trả lời câu hỏi của thị trường, NHNN đã đưa ra 4 yếu tố khiến lãi suất cho vay hiện nay vẫn ở mức cao.
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
Theo Ngân hàng Nhà nước, kinh tế Việt Nam phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng (tỷ lệ tín dụng/GDP cuối năm 2022 ở mức 125,34%), trong khi nhu cầu vốn để phát triển kinh tế luôn ở mức cao, tạo áp lực lên lãi suất cho vay. Sau dịch Covid-19, kinh tế phục hồi trở lại nên nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh gia tăng, hệ thống ngân hàng sử dụng tối đa nguồn huy động cho phép để đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Hiện chênh lệch tiền gửi và tín dụng bằng VND ở mức 167 ngàn tỷ đồng; hệ số sử dụng vốn trên thị trường 1 (tỷ lệ tín dụng/huy động vốn thị trường 1) bằng VND ở mức 101,45%, giảm so với mức 102,28% cuối năm 2022 nhưng vẫn ở mức rất cao.
Thứ hai, mặt bằng lãi suất thế giới gia tăng trong năm 2022 và vẫn ở mức cao trong các tháng đầu năm 2023. Các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới vẫn tiếp tục triển khai lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ và duy trì lãi suất ở mức cao, Fed đã 10 lần tăng lãi suất (hiện lãi suất mục tiêu Fed Fund ở mức 5,0-5,25%/năm; ECB: lãi suất tái cấp vốn là 3,5%/năm, lãi suất tiền gửi là 3,0%/năm).
Áp lực lạm phát trong nước (lạm phát bình quân 4 tháng/2023 ở mức 3,84%; lạm phát cơ bản tăng 4,9%; mục tiêu lạm phát năm 2023 là 4,5%). Áp lực lạm phát hiện hữu, tiểm ẩn, khiến người dân kỳ vọng lãi suất thực dương nên tổ chức tín dụng khó giảm lãi suất để thu hút tiền gửi, khiến chi phí đầu vào của tổ chức tín dụng ở mức cao. Huy động vốn đến ngày 27/4/2023 tăng 1,78%, chỉ bằng gần 50% so với tốc độ tăng trưởng tín dụng 3,04%.
Thứ ba, Thông tư số 02/2023/TT-NHNN mới ban hành ngày 23/4/2023 cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ khách hàng gặp khó khăn tức là tổ chức tín dụng chưa thu nợ khi đến hạn trong khi tổ chức tín dụng vẫn phải đảm bảo chi trả tiền gửi, làm giảm doanh số cho vay và chậm lại vòng quay vốn trong nền kinh tế, nên gây áp lực trở lại lên khả năng cân đối vốn và dư địa giảm lãi suất.
Đồng thời, hệ thống ngân hàng vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, nâng cấp chuẩn mực quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế…, một số ngân hàng thương mại quy mô nhỏ duy trì lãi suất tiền gửi ở mức cao để giữ khách hàng cũng làm cho việc giảm mặt bằng lãi suất cho vay trở nên khó khăn hơn.
Thứ tư, theo quy định hiện hành, việc xem xét quyết định về lãi suất cho vay là do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận theo cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng.
Trường hợp lãi suất thị trường có biến động hoặc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh các mức lãi suất điều hành dẫn đến việc tổ chức tín dụng điều chỉnh tăng hoặc giảm lãi suất tiền gửi, hoặc tổ chức tín dụng chủ động điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, đối với các khoản vay mà tổ chức tín dụng và khách hàng đã thỏa thuận về lãi suất, thì tổ chức tín dụng tiếp tục áp dụng lãi suất đã thỏa thuận cho tới hết thời hạn khoản vay hoặc đến hết kỳ hạn trả lãi theo thỏa thuận cho vay giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Bên cạnh đó, hiện nay Ngân hàng Nhà nước cũng quy định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND (hiện ở mức 4,5%/năm) của tổ chức tín dụng đối với khách hàng nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn nhằm giảm chi phí vốn vay, tăng khả năng tiếp cận vốn vay theo chỉ đạo của Chính phủ.
Qua theo dõi báo cáo của các tổ chức tín dụng, đến nay mặt bằng lãi suất thị trường đã dần ổn định, nhiều ngân hàng thương mại đã giảm lãi suất cho vay. Hiện lãi suất cho vay VND phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức khoảng 9,3%/năm (giảm 0,65%/năm so với cuối năm 2022).
Ngân hàng Nhà nước cho biết thời gian tới, trên cơ sở diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ trong và ngoài nước, Ngân hàng Nhà nước sẽ nghiên cứu điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ. Đồng thời tiếp tục khuyến khích các tổ chức tín dụng triển khai các giải pháp tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Tiến Hoàng