Sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP ở Hà Tĩnh
Việc mở rộng mô hình chè theo tiêu chuẩn VietGAP tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã giúp người dân có nguồn thu nhập ổn định và đồng thời xây dựng được thương hiệu chè an toàn, thân thiện với môi trường. Đây là một bước tiến lớn và là hướng đi phù hợp với xu thế hiện tại.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhu cầu ngày càng cao về thực phẩm an toàn, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm đã trở thành một mối quan tâm lớn của người tiêu dùng. Ngành nông nghiệp tại Hà Tĩnh, đặc biệt là huyện Kỳ Anh, đã chú trọng phát triển mô hình sản xuất chè an toàn theo quy trình VietGAP.
Trong những năm gần đây, huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) đã xác định cây chè là cây trồng chủ lực, góp phần mang lại thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân vùng thượng của huyện. Đặc biệt, tại xã Kỳ Trung, ngoài việc mở rộng diện tích trồng chè, mô hình sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP đang được chú trọng phát triển và thu hút sự quan tâm từ các nhà quản lý, người trồng chè và người tiêu dùng. Gia đình bà Đồng Thị Vân, sống tại thôn Nam Sơn, xã Kỳ Trung, đã có nhiều năm kinh nghiệm trong việc trồng chè nguyên liệu. Trên diện tích gần 1 ha, gia đình bà đã đầu tư trồng giống chè PH1 mới và chuyển sang chăm sóc chè theo hướng VietGAP, nhờ đó sản lượng chè tăng đáng kể. Bà Vân cho biết: "Mặc dù việc chăm sóc chè theo hướng VietGAP cần nhiều công sức hơn, nhưng lượng búp chè thu được tăng từ 10 - 15%. Sau khi thu hoạch lứa đầu tiên, gia đình tôi đang tập trung chăm sóc, làm cỏ và bón phân để chè ra lứa tiếp theo với năng suất cao hơn nữa."
Tương tự, gia đình chị Dương Thị Thanh cũng tại xã Kỳ Trung trước đây bỏ hoang gần 1 ha đất vì không tìm được cây trồng thích hợp. Thấy cây chè mang lại thu nhập ổn định, năm 2009, chị Thanh quyết định cải tạo đất để trồng chè. Hiện tại, gia đình chị đã có 0,7 ha chè đang cho sản phẩm và 0,3 ha chè mới trồng. Gia đình chị tập trung vào các giống chè năng suất cao và sản xuất theo quy trình VietGAP, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tạo ra sản phẩm chè an toàn. Bằng cách chăn nuôi thêm bò và gà, chị chủ động sản xuất phân chuồng ủ hoai mục để bón cho cây chè. Bên cạnh đó, chị còn đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt để đảm bảo nguồn nước tưới, giúp cây chè phát triển tốt, năng suất đạt 13 - 15 tấn/ha, với giá bán trung bình 7.000 đồng/kg, mang lại thu nhập trên 100 triệu đồng mỗi năm.
Nhằm liên kết sản xuất chè an toàn, Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn (xã Kỳ Trung) đã được thành lập với 41 thành viên. Mỗi năm, tổ hợp tác cung cấp gần 320 tấn chè búp tươi cho Xí nghiệp chè 12/9. Thông qua việc sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, người dân đã biết cách ghi chép nhật ký từ khâu làm đất, ươm giống, bón phân, đến việc thu hái và phun thuốc bảo vệ thực vật đúng liều lượng, đảm bảo thời gian cách ly. Nhờ đó, cây chè sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, chi phí sản xuất giảm và giá trị sản phẩm được nâng cao. Hiện nay, giá chè tươi dao động từ 7.500 - 7.600 đồng/kg, người dân phấn khởi chuẩn bị thu hoạch lứa thứ hai để cung cấp cho Xí nghiệp chè 12/9.
Anh Trần Công Quý, Tổ trưởng Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn, chia sẻ: “Sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP không chỉ mang lại thu nhập khá cho các hộ gia đình mà còn tăng cường tính đoàn kết và tương trợ giữa các thành viên. Các hộ cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trồng, chăm sóc, và chế biến chè để đưa sản phẩm ngày càng chất lượng đến với người tiêu dùng.” Việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP giúp tăng hiệu quả kinh tế của các hộ từ 15 - 20% so với trồng chè đại trà, giảm số lần phun thuốc từ 2 - 3 lần, qua đó góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Ông Lê Đình Dũng, Phó Chủ tịch UBND xã Kỳ Trung, cho biết: "Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Kỳ Trung đã xác định cây chè nguyên liệu là cây trồng chủ lực, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân. Địa phương có các chính sách hỗ trợ trồng chè, tập huấn kỹ thuật, xây dựng vườn ươm cây giống và liên kết với Công ty Cổ phần chè Hà Tĩnh để bao tiêu sản phẩm chè búp tươi cho bà con. Các giống chè PH1, LDP1 năng suất cao và chất lượng tốt được đưa vào trồng đại trà. Hiện nay, xã Kỳ Trung có gần 160 ha chè nguyên liệu, với hơn 130 ha đã cho thu hoạch, thu nhập từ cây chè đạt hơn 10 tỷ đồng mỗi năm, chiếm trên 60% tổng giá trị sản xuất của xã."
Việc phát triển vùng nguyên liệu chè bền vững và liên kết sản xuất đã giúp thay đổi nhận thức của người dân về phương thức sản xuất theo chuỗi giá trị và sản xuất gắn với thị trường. Các quy trình sản xuất, bảo quản và chế biến sau thu hoạch được ứng dụng, góp phần thúc đẩy các vùng sản xuất chè quy mô và bền vững. Xí nghiệp chè 12/9 thuộc Công ty Cổ phần chè Hà Tĩnh thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật kiểm tra tình hình phát triển của diện tích chè tại các hộ dân, từ đó hướng dẫn người dân thời điểm và kỹ thuật thu hái để búp chè đạt chất lượng cao nhất.
Qua đánh giá hoạt động của Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn, ông Vũ Phạm Xuân Anh, chuyên gia đánh giá của Tổ chức chứng nhận FAO (Công ty Cổ phần Chứng nhận và Kiểm nghiệm FAO) cho biết: “Đến nay, các hộ dân đã nắm chắc quy trình sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP, cây chè phát triển tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Đây là vùng chè an toàn đối với người sử dụng. Chúng tôi đang tiến hành lấy mẫu đất, nước, sản phẩm để phân tích, đánh giá và cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP cho Tổ hợp tác”.
Sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP ở Hà Tĩnh không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ dân mà còn góp phần nâng cao nhận thức về sản xuất nông nghiệp an toàn và bền vững. Với những nỗ lực trong việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến và liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, Hà Tĩnh đang từng bước khẳng định vị thế của mình trên thị trường chè trong nước và quốc tế. Đây là một mô hình sản xuất cần được nhân rộng để đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững cho nông nghiệp Việt Nam.