Ngành chăn nuôi đặt mục tiêu xuất khẩu 3-4 tỷ USD vào năm 2030
Thực hiện Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045, ngành chăn nuôi bắt đầu triển khai 3 đề án lớn, hướng đến mục tiêu giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt từ 1 - 1,5 tỷ USD vào năm 2025 và từ 3 - 4 tỷ USD vào năm 2030.
Trong vài năm gần đây, ngành chăn nuôi đã đạt được một số kết quả khả quan. Theo Cục Chăn Nuôi, đến cuối năm 2023, tổng số lượng lợn ước đạt 30,3 triệu con, tăng 4,2% so với năm 2022. Đàn trâu giảm 1% xuống còn 2,2 triệu con, trong khi đàn bò tăng 1% lên 6,4 triệu con và đàn gia cầm tăng 2,6% lên 558,6 triệu con. Dự kiến sản lượng thịt hơi toàn ngành sẽ đạt trên 7,6 triệu tấn, tăng 3,5% so với năm trước. Sản lượng trứng dự kiến đạt 18,98 tỷ quả, tăng 3,9%, và sản lượng sữa tươi dự kiến đạt trên 1,2 triệu tấn, tăng 7,2%. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế cần được cải thiện như: việc kiểm soát nhập lậu và nguồn gốc sản phẩm chưa rõ ràng, thiếu nguồn nguyên liệu đầu vào và tổ chức sản xuất chưa hiệu quả, cũng như việc kiểm soát an toàn sinh học, dịch bệnh, an toàn thực phẩm và quản lý môi trường chưa đáp ứng yêu cầu.
Những đề án nâng cao sản xuất cho ngành chăn nuôi.
Để khắc phục những hạn chế của ngành chăn nuôi đồng thời hướng đến các mục tiêu đã đặt ra, cuối năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành nhiều quyết định quan trọng đối với ngành chăn nuôi. Quyết định số 1625/QĐ-TTg ngày 15/12/2023 phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi đến năm 2030; Quyết định số 1740/QĐ-TTg ngày 30/12/2023 phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp giết mổ, chế biến và thị trường sản phẩm chăn nuôi đến năm 2030 và Quyết định số 1741/QĐ-TTg ngày 30/12/2023 phê duyệt Đề án phát triển công nghiệp sản xuất giống vật nuôi đến năm 2030 thực hiện Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045.
Tập trung 3 khâu: Thức ăn, giống và chế biến
Theo thông tin từ Ông Dương Tất Thắng, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Đề án Phát triển Công nghiệp Chế biến Thức ăn Chăn nuôi đã đặt ra mục tiêu sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp là đạt từ 24-25 triệu tấn vào năm 2025 và từ 30-32 triệu tấn vào năm 2030. Đề án cũng tập trung vào công nghiệp hóa sản xuất các loại thức ăn bổ sung trong nước, như chế biến vi sinh vật, enzyme, thảo dược, và các khoáng chất, để cung cấp 20-25% nhu cầu vào năm 2025 và 30-35% vào năm 2030.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến trong chế biến các loại phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp, chế biến thực phẩm... làm thức ăn chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa, nâng cao giá trị sử dụng và hiệu quả kinh tế. Đề án Phát triển công nghiệp sản xuất giống vật nuôi đến năm 2030 với mục tiêu nâng cao năng lực sản xuất giống vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, giống vật nuôi đặc sản đáp ứng nhu cầu sản xuất chăn nuôi trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Đề án đưa ra bốn nhiệm vụ.
Một là, xây dựng được ngân hàng giống quốc gia, ưu tiên các doanh nghiệp có ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ sinh học và quản lý giống theo hình tháp trong sản xuất giống.
Hai là, nâng cấp, hiện đại hóa một số trung tâm giống hiện có và tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ trong ngành giống vật nuôi tạo động lực thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất giống vật nuôi.
Ba là, đến năm 2030, nước ta có thể chủ động sản xuất được nguồn giống vật nuôi chủ lực cấp bố mẹ và con thương phẩm có năng suất, giảm nhập khẩu các giống vật nuôi chủ lực: đáp ứng tối thiểu 90% nhu cầu giống lợn, 80% nhu cầu giống gà, 100% nhu cầu giống vịt, 70% nhu cầu giống bò thịt.
Bốn là, khai thác và phát triển nguồn gen giống vật nuôi bản địa theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả gắn với du lịch sinh thái.
Đề án phát triển công nghiệp giết mổ, chế biến và thị trường sản phẩm chăn nuôi đề xuất tăng cường các cơ sở giết mổ quy mô tập trung, áp dụng công nghệ tiên tiến và liên kết chặt chẽ với các khu vực sản xuất chăn nuôi; mục tiêu là đạt tỷ lệ gia súc, gia cầm được giết mổ tập trung công nghiệp chiếm khoảng 60% và 40% vào năm 2025, và khoảng 70% và 50% vào năm 2030. Về việc phát triển thị trường sản phẩm chăn nuôi, mục tiêu là giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt từ 1 - 1,5 tỷ USD vào năm 2025 và từ 3 - 4 tỷ USD vào năm 2030.
Thu hút đầu tư
Trên cơ sở các quyết định được phê duyệt, Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành kế hoạch chi tiết nhằm triển khai hiệu quả các Đề án.
Đối với Đề án phát triển công nghiệp sản xuất giống vật nuôi đến năm 2030: Tập trung nâng cao năng lực sản xuất giống vật nuôi quy mô công nghiệp có khả năng chọn tạo giống có năng suất cao mang thương hiệu Việt Nam. Tổng điều tra xây dựng bản đồ ngân hàng giống vật nuôi bản địa quốc gia để khai thác và phát triển theo lợi thế, đặc trưng vùng miền. Từ đó, nâng cao năng lực nuôi giữ giống vật nuôi quốc gia đảm bảo an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học. Cùng với đó, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giống vật nuôi nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp giống vật nuôi; nâng cao năng lực kiểm tra năng suất, khảo nghiệm, kiểm định giống vật nuôi.
Đối với Đề án phát triển công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi đến năm 2030: Tập trung đánh giá trình độ công nghệ và đề xuất giải pháp cải tiến công nghệ sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp; Phát triển công nghiệp sản xuất thức ăn bổ sung; Phát triển công nghiệp sản xuất, chế biến, bảo quản nguồn phụ phẩm nông, công nghiệp làm thức ăn chăn nuôi; Phát triển vùng sản xuất nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi.
Đối với Đề án phát triển công nghiệp giết mổ, chế biến và thị trường sản phẩm chăn nuôi đến năm 2030: Tập trung khảo sát, đánh giá định kỳ (năm 2025, 2027, 2029) về điều kiện vệ sinh an toàn dịch bệnh, an toàn chất lượng; trình độ năng lực công nghệ về giết mổ, chế biến các sản phẩm chăn nuôi. Xây dựng bổ sung các quy chuẩn, tiêu chuẩn, chính sách đặc thù của lĩnh vực giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi. Phát triển hạ tầng kỹ thuật, thu hút đầu tư, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả chế biến các sản phẩm chăn nuôi: Thu hút các doanh nghiệp chế biến sản phẩm chăn nuôi có quy mô lớn với thiết bị chế biến hiện đại, đồng bộ, công nghệ tiên tiến, gắn với các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, an toàn dịch bệnh và áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc bảo đảm điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; đa dạng hóa chủng loại sản phẩm chế biến...
Thị trường rộng mở và tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam
Theo Cục Chăn nuôi, Trung Quốc là quốc gia đứng đầu thế giới về sản xuất thịt lợn (thị phần thịt xẻ chiếm 49% tổng thịt lợn thế giới); thứ 3 thế giới về sản lượng thịt bò; thứ 3 thế giới về sản lượng thịt gia cầm. Nhưng với hơn 1,4 tỷ dân, đây vẫn là thị trường tiềm năng về thịt và sản phẩm chăn nuôi nói chung (đứng đầu tiêu thụ thịt lợn, thứ 2 về tiêu thụ thịt bò và thịt gia cầm của toàn cầu).
Hiện nay, Việt Nam đang mở rộng thị trường xuất khẩu chăn nuôi, tận dụng các cơ hội từ việc ký kết các thỏa thuận quan trọng. Năm 2019, việc ký kết "Nghị định thư về yêu cầu thú y và sức khỏe cộng đồng đối với sản phẩm sữa của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc" đã mở đường cho sữa tươi Việt Nam tiến thẳng vào thị trường Trung Quốc, với mức tăng trưởng ấn tượng lên đến 123 triệu USD vào năm 2023. Đồng thời, Việt Nam cũng đã xuất khẩu thành công lô sản phẩm tổ yến đầu tiên sang Trung Quốc theo các thỏa thuận tương tự. Để phát triển thị trường tiêu thụ, Việt Nam đặt trọng tâm vào các thị trường lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU, cùng việc khai thác tiềm năng từ các thị trường mới như các nước Hồi giáo Halal, Trung Đông và châu Phi. Tận dụng các FTA, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông - lâm - thủy sản chủ lực, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng xuất khẩu mới. Đồng thời, các biện pháp hỗ trợ như bảo hộ nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý cũng được đưa ra, cùng với việc tăng cường theo dõi và đảm bảo nguồn cung sản phẩm nông sản trong nước và xuất khẩu. Đây là một cơ hội lớn để Việt Nam thúc đẩy sự phát triển và đóng góp vào thị trường thế giới.