Xuất khẩu chè năm 2022 tăng cả lượng và kim ngạch
Năm 2022, xuất khẩu chè đạt 146,1 nghìn tấn, trị giá 236,5 triệu USD, tăng 15,2% về lượng và tăng 10,6% về trị giá so với năm 2021.
Năm 2022, xuất khẩu chè tăngvề lượng và trị giá so với năm 2021
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu chè trong tháng 12/2022 đạt 11,9 nghìn tấn, trị giá 20,5 triệu USD, tăng 0,5% về lượng và tăng 2% về trị giá so với tháng 12/2021. Giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 12/2022 đạt 1.718,5 USD/tấn, tăng 1,5% so với tháng 12/2021.
Năm 2022, xuất khẩu chè đạt 146,1 nghìn tấn, trị giá 236,5 triệu USD, tăng 15,2% về lượng và tăng 10,6% về trị giá so với năm 2021. Giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.618,9 USD/tấn, giảm 4% so với năm 2021.
Kết quả đạt được của ngành chè rất ấn tượng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều biến động, chuỗi cung ứng bị đứt gãy do xung đột giữa Nga và U-crai-na, chính sách “Zero Covid” của Trung Quốc. Bên cạnh đó, các thị trường sản xuất chè chính đang có xu hướng giảm sản lượng, cụ thể Xri Lan-ca giảm sản lượng bởi tình trạng thiếu hụt phân bón và và cấm thuốc diệt cỏ; Kê-ni-a sản lượng chè giảm đáng kể do thời tiết thất thường; Các nhà sản xuất chè lớn khác là Ấn Độ và Trung Quốc cũng phải đối mặt với nhiệt độ tăng cao và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt ảnh hưởng đến sản xuất.
Với kết quả đạt được trong năm 2022, ngành chè sẽ có nhiều cơ hội tăng trưởng trong năm 2023. Tuy nhiên, đà tăng trưởng của ngành hàng này bị cản trở bởi sức ép lạm phát khiến nhu cầu của người tiêu thụ chè của các quốc gia hạn chế. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của cuộc xung đột, khiến chi phí đầu vào cho sản xuất gia tăng làm ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của sản phẩm tại các thị trường xuất khẩu chính.
Năm 2022, xuất khẩu chè tới các trường chính đều tăng trưởng tốt. Dẫn đầu về trị giá xuất khẩu là thị trường Pa-ki-xtan, đạt 55,5 nghìn tấn, trị giá 102,9 triệu USD, tăng 27,2% về lượng và tăng 20,1% về trị giá so với năm 2021. Tiếp theo là xuất khẩu tới thị trường Đài Loan đạt 19,2 nghìn tấn, trị giá 36 triệu USD, tăng 3,5% về lượng và tăng 35,3% về trị giá; Trung Quốc đạt 10,4 nghìn tấn, trị giá 18 triệu USD, tăng 15,6% về lượng và tăng 27% về trị giá so với năm 2021. Tỷ trọng xuất khẩu chè tới 3 thị trường này chiếm 58,3% tổng lượng chè xuất khẩu trong năm 2022.
Do ảnh hưởng bởi cuộc xung đột giữa Nga và Ucraina, hoạt động xuất khẩu chè tới thị trường Nga giảm mạnh trong năm 2022, đạt 9,9 nghìn tấn, trị giá 16,8 triệu USD, giảm 17,7% về lượng và giảm 14,6% về trị giá so với năm 2021.
Tiếp theo là xuất khẩu tới thị trường Hoa Kỳ đạt 5,9 nghìn tấn, trị giá 8,4 triệu USD, giảm 9,5% về lượng và giảm 7,8% về trị giá; tới I-rắc đạt 4,4 nghìn tấn, trị giá 7,2 triệu USD, giảm 32% về lượng và giảm 27,2% về trị giá so với năm 2021.
Thị phần chè của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của thị trườngHồng Kông giảm
Theo số liệu từ Cục điều tra dân số và thống kê Hồng Kông, nhập khẩu chè của thị trường Hồng Kông trong 11 tháng năm 2022 đạt 11,5 nghìn tấn, trị giá 1,6 tỷ HKD (tương đương 203,8 triệu USD), giảm 6,9% về lượng và giảm 12,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Giá chè nhập khẩu bình quân trong 11 tháng năm 2022 đạt 90,8 nghìn HKD/tấn, giảm 5,7% so với cùng kỳ năm 2021.
11 tháng năm 2022, thị trường Hồng Kông nhập khẩu chè nhiều nhất từ thị trường Trung Quốc và Xri Lan-ca, lượng nhập khẩu từ 2 thị trường này chiếm 84,7% tổng lượng chè nhập khẩu. Trong đó, nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 11,1 nghìn tấn, trị giá 1,27 tỷ HKD (tương đương 162,4 triệu USD), tăng 2,5% về lượng nhưng giảm 12,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021; tiếp theo là thị trường Xri Lan-ca đạt 3,8 nghìn tấn, trị giá 141,4 triệu HKD (tương đương 18,1 triệu USD), giảm 12,8% về lượng và giảm 2,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021.
Thị trường Hồng Kông chỉ nhập khẩu một lượng chè nhỏ từ Việt Nam, lượng và trị giá nhập khẩu từ Việt Nam giảm rất mạnh trong 11 tháng năm 2022, đạt 0,018 tấn, trị giá 1 nghìn HKD (tương đương 0,13 nghìn USD), giảm 99,6% về lượng và giảm 99,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Dư địa thị trường còn lớn là cơ hội để các anh nghiệp ngành chè đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này trong thời gian tới.
Đáng chú ý, thị trường Hồng Kông giữ vai trò trung tâm tài chính, giao thông, thương mại trong khu vực Vịnh lớn (khu vực gồm thị trường Hồng Kông, Ma-Cao và 9 thành phố khác thuộc Trung Quốc), cũng như toàn thế giới, là cổng kết nối quan trọng giúp các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư kinh doanh tại khu vực Vịnh lớn cũng như thị trường Trung Quốc.
Việc xuất khẩu chè từ Việt Nam đi các thị trường Hoa Kỳ, châu Âu và Trung Quốc qua cửa ngõ thị trường Hồng Kông đều có lợi thế về chi phí logistics. Thị trường Hồng Kông đã kết nối đường bộ trực tiếp đến Ma-Cao và Quảng Đông, do vậy, với mặt hàng chè từ Việt Nam cần vận chuyển nhanh vào Trung Quốc thì trung chuyển qua thị trường Hồng Kông rất thuận lợi. Ngoài ra, dịch vụ hải quan cùng với hệ thống hạ tầng cảng cũng là một lợi thế cạnh tranh của đặc khu hành chính này
Thị trường Hồng Kông nhập khẩu nhiều nhất là chủng loại chè đen, trong 11 tháng năm 2022 đạt 11,5 nghìn tấn, trị giá 1,03 tỷ HKD (tương đương 131,4 triệu USD), giảm 14,2% về lượng và giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, Trung Quốc và Xri Lan-ca là 2 thị trường cung cấp chính chủng loại chè đen cho thị trường Hồng Kông, lượng nhập khẩu từ 2 thị trường này chiếm87,6% tổng lượng chè đen nhập khẩu
Tiếp theo là chủng loại chè xanh thị trường Hồng Kông nhập khẩu trong 11 tháng năm 2022 đạt 6 nghìn tấn, trị giá 563,7 triệu HKD (tương đương 72,1 triệu USD), tăng 11% về lượng, nhưng giảm 19,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2021. Trung Quốc là thị trường cung cấp chính chủng loại chè xanh cho thị trường Hồng Kông trong 11 tháng năm 2022, với lượng chiếm 79,1% tổng lượng chè xanh nhập khẩu. Tiếp theo là thị trường Nhật Bản, thị trường Đài Loan, Ba Lan, Xin-ga-po…
Bảo An