Quý 1 tốc độ tăng trưởng nhanh: Khởi đầu tích cực cho năm 2024
GDP thực tế của Việt Nam tăng 5,66% so với cùng kỳ trong quý 1 năm 2024, kéo dài mức tăng 6,72% so với cùng kỳ trong quý 4 năm 2023 và vượt xa mức tăng 3,41% trong quý 1 năm 2023. Đây là kết quả quý 1 tốt nhất từ năm 2020 đến năm 2023.
Khởi đầu năm mới đầy hứa hẹn
Theo Dữ liệu do Tổng cục Thống kê (GSO) công bố ngày 29/3/2024 cho thấy, GDP thực tế của Việt Nam tăng 5,66% so với cùng kỳ trong quý 1 năm 2024, kéo dài đà tăng 6,72% trong quý 4 năm 2023 và 5,33% trong quý 3 năm 2023, đồng thời vượt xa mức tăng 3,41% trong quý 1 năm 2023, và là kết quả hoạt động quý 1 tốt nhất từ năm 2020 đến năm 2023. Kết quả này cao hơn một chút so với dự báo 5,5% của chúng tôi và thấp hơn ước tính trung bình của Bloomberg là 6,4%, nhưng đây vẫn là một khởi đầu tích cực cho năm 2024 sau một năm đầy thử thách.
Tăng trưởng trong quý 1 năm 2024 được thúc đẩy bởi sự đóng góp từ các ngành có tỷ trọng lớn như công nghiệp và xây dựng, tăng 6,28% so với cùng kỳ và dịch vụ tăng 6,12%, trong khi sản lượng của ngành nông nghiệp tăng 2,98% so với cùng kỳ.
Theo GSO, các lĩnh vực này lần lượt chiếm 41,68%, 52,23% và 6,09% trong mức tăng trưởng chung trong quý 1 năm 2024, trong đó đáng chú ý là lĩnh vực du lịch đã phục hồi mạnh mẽ nhờ chính sách thị thực thuận lợi và các chương trình khuyến khích du lịch, đồng thời kim ngạch xuất khẩu của các sản phẩm chủ lực ghi nhận một xu hướng đi lên.
Cụ thể, sản xuất công nghiệp của Việt Nam đã tăng 6,18% so với cùng kỳ trong quý 1 năm 2024, do các hoạt động tăng 4,1% so với cùng kỳ trong tháng 3, đảo ngược mức giảm 5,9% trong tháng 2. Sự tăng vọt này được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng của ba trong số bốn chỉ số phụ chính - sản xuất điện và khí đốt, sản xuất hàng hóa, cung cấp nước và quản lý chất thải.
Tổng doanh số bán lẻ trong quý 1 năm 2024 tăng 8,2% so với cùng kỳ, dẫn đầu là các dịch vụ liên quan đến du lịch và lữ hành tăng 46% so với cùng kỳ, lưu trú (13,3%) và thương mại bán lẻ (7%). Sự phục hồi trong lĩnh vực du lịch được phản ánh trong dữ liệu về dòng khách du lịch, với tổng số 4,6 triệu lượt khách trong quý 1 năm 2024, tăng gần 72% so với cùng kỳ năm trước so với 2,7 triệu khách trong quý 1 năm 2023, với nguồn khách du lịch chính đến từ Hàn Quốc (chiếm 27% thị phần), Trung Quốc (19%), khu vực Đài Loan (6,5%), Mỹ (5%) và Nhật Bản (3,9%).
Áp lực lạm phát đã giảm bớt, mặc dù Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam trong quý đầu tiên tăng 3,77% so với cùng kỳ, từ mức 3,54% trong quý 4 năm 2023, đánh dấu quý thứ tư liên tiếp lạm phát toàn phần đã tăng tốc. Ngược lại, CPI lõi (không tính đến giá thực phẩm và năng lượng) đã chậm lại trong quý thứ tư liên tiếp, xuống 2,81% so với cùng kỳ trong quý 1 năm 2024 từ mức 3,19% trong quý 4 năm 2023.
Đáng chú ý, tỷ lệ lạm phát trong quý 1 năm 2024 được thúc đẩy bởi mức tăng CPI chung trong tháng 2 và tháng 3, tăng gần 4% so với cùng kỳ trong hai tháng đó, so với tốc độ trung bình là 3,3% vào năm 2023. Những nguyên nhân chính trong quý là chi phí nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao (5,4% so với cùng kỳ), giáo dục (9,0%) và chi phí y tế (6,5% so với cùng kỳ). Nếu giá năng lượng tiếp tục ở mức cao, điều đó có thể tạo thêm áp lực tăng giá chung.
Một yếu tố khác có thể tác động đến lạm phát là kế hoạch tăng lương tối thiểu 6% kể từ tháng 7 năm 2024, mức tăng lớn hơn một chút so với mức 5,88% vào tháng 7 năm 2022. Việt Nam đã tăng mức lương tối thiểu lần lượt là 7,3%, 6,5% và 5,3% lần lượt vào các năm 2017, 2018 và 2019.
Nhu cầu bên ngoài tiếp tục phục hồi
Một động lực chính dẫn đến kết quả tăng trưởng mạnh mẽ trong quý 1 năm 2024 là hoạt động ngoại thương, với cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng với tốc độ nhanh nhất kể từ năm 2021, được thúc đẩy bởi nhu cầu mạnh mẽ đối với các sản phẩm như điện tử và điện thoại. Doanh số ngành bán dẫn tăng lên kể từ giữa năm 2023 cho thấy xu hướng này có thể sẽ tiếp tục trong các quý tới.
Bất chấp xung đột Nga-Ukraine đang diễn ra và tình trạng gián đoạn vận chuyển ở Biển Đỏ, xuất khẩu hàng hóa vẫn tăng 17% so với cùng kỳ trong khi nhập khẩu tăng 13,9% trong quý 1 năm 2024, dẫn đến thặng dư thương mại 8,08 tỷ USD. Đây là một cú lội ngược dòng mạnh mẽ sau khi cả xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm trong hầu hết năm 2023, dẫn đến mức giảm lần lượt là 5% và 9% trong cả năm 2023.
GSO cho biết xuất khẩu hàng điện tử tăng 30% so với cùng kỳ, trong khi xuất khẩu điện thoại thông minh tăng 10% và hàng may mặc tăng 7,9% trong quý. Dựa trên dữ liệu từ tháng 1 đến tháng 2 năm 2024, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 28% thị phần, tiếp theo là Trung Quốc (14% thị phần), Hàn Quốc (7%) và Nhật Bản (6%). Cơ cấu này tương tự như năm 2023, với việc Mỹ chiếm 27% thị phần xuất khẩu của Việt Nam, tiếp theo là Trung Quốc (17%) và Hàn Quốc (dưới 7% tổng thị phần).
Về mặt nhập khẩu, Trung Quốc là nguồn cung lớn nhất trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 2, với thị phần áp đảo 36%, so với Hàn Quốc (15% thị phần), Nhật Bản (7%), khu vực Đài Loan (6%) và Mỹ (4%). Nói cách khác, nhập khẩu từ Trung Quốc đã lớn hơn tổng lượng nhập khẩu từ 4 thị trường lớn kế tiếp.
Nhìn vào dữ liệu hàng năm, Trung Quốc là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam kể từ năm 2014, ở mức 110,7 tỷ USD vào năm 2023, tương đương khoảng 34% tổng lượng nhập khẩu. Tiếp theo là Hàn Quốc (52,4 tỷ USD), Nhật Bản (21,6 tỷ USD), Đài Loan (18,4 tỷ USD). Tương tự, lượng nhập khẩu từ Trung Quốc vào năm 2023 nhiều hơn tổng lượng nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan cộng lại. Lượng nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng hơn 2,5 lần kể từ năm 2014, với tốc độ nhanh hơn nhiều so với Hàn Quốc (2,4 lần), Nhật Bản và Đài Loan (khoảng 1,7 lần cho cả hai).
Nối dài đà tăng trong năm 2023, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục duy trì mạnh mẽ trong quý 1 năm 2024. Dòng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 6,2 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ so với mức 5,4 tỷ USD trong quý 1 năm 2023. Singapore là nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất với 2,6 tỷ USD hay 42% thị phần, tiếp theo là Đặc khu hành chính Hồng Kông (1,1 tỷ USD), Trung Quốc (0,6 tỷ USD), Nhật Bản (0,5 tỷ USD) và Hàn Quốc (0,4 tỷ USD). Như trong quý 1 năm 2023, lĩnh vực sản xuất và chế biến chiếm phần lớn đầu tư trong quý 1 năm 2024 với 64% thị phần, tiếp theo là bất động sản (32%) và bán buôn & bán lẻ (3%).
Dòng vốn FDI thực hiện (hoặc giải ngân) vào Việt Nam lên tới 4,6 tỷ USD trong quý 1 năm 2024, cao hơn 6% so với cùng kỳ so với 4,3 tỷ USD trong quý 1 năm 2023. Dòng vốn FDI thực hiện vào Việt Nam đạt mức cao kỷ lục 23,2 tỷ USD vào năm 2023, vượt qua kỷ lục trước đó là 22,4 tỷ USD vào năm 2022. Trong khi đó, dòng vốn FDI đăng ký trong năm 2023 tăng 32% lên 36,6 tỷ USD từ 27,7 tỷ USD năm 2022, gần bằng mức cao kỷ lục 38 tỷ USD vào năm 2019.
Những dữ liệu FDI này cho thấy: i) các doanh nghiệp tiếp tục coi Việt Nam là điểm đến đầu tư quan trọng trong trung và dài hạn, trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang diễn ra quá trình tái cấu trúc; ii) sự gia tăng cả dòng vốn FDI thực hiện và đăng ký sẽ thúc đẩy hơn nữa các hoạt động trong nước trong những quý tới, bao gồm cả tăng trưởng việc làm và xây dựng; và iii) sự khẳng định niềm tin và cam kết của các doanh nghiệp nước ngoài đối với đất nước trong làn sóng phi toàn cầu hóa, giảm rủi ro và chuyển dịch chuỗi cung ứng hiện nay.
Triển vọng vẫn tích cực trong năm 2024
Với kết quả hoạt động trong quý 1 năm 2024 đạt được như kỳ vọng của chúng tôi và là sự khởi đầu tích cực cho năm nay, dự báo triển vọng cho năm 2024 vẫn tích cực mặc dù các rủi ro ngược vẫn còn hiện hữu, bao gồm xung đột giữa Nga và Ukraine cũng như giữa Israel và Hamas có thể làm gián đoạn thương mại và thị trường năng lượng/hàng hóa toàn cầu.
Tuy nhiên, sự phục hồi của nhu cầu ngành bán dẫn, tăng trưởng ổn định ở Trung Quốc và khu vực cũng như khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trong những tháng tới sẽ hỗ trợ cho triển vọng kinh tế trong năm nay. Chúng tôi giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6,0% vào năm 2024, so với mục tiêu tăng trưởng từ Chính phủ là 6 - 6,5%.
Ngân hàng Nhà nước giữ lãi suất ổn định trong thời điểm hiện tại
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã phản ứng nhanh chóng vào đầu năm 2023 trước những thách thức và tình trạng suy thoái kinh tế với các đợt cắt giảm lãi suất liên tiếp. Lần giảm lãi suất chính sách cuối cùng diễn ra vào tháng 6 năm 2023, khi lãi suất tái cấp vốn được cắt giảm tổng cộng 150 điểm cơ bản, xuống còn 4,50%. Tuy nhiên, với tốc độ hoạt động kinh tế đang được cải thiện và triển vọng tăng trưởng tốt hơn vào năm 2024, khả năng cắt giảm lãi suất tiếp theo vẫn ở mức thấp nhưng không nên loại trừ hoàn toàn.
Tỷ lệ lạm phát tăng nhanh gần đây có thể khiến NHNN thận trọng hơn nữa trong bất kỳ thay đổi nào về lãi suất chính sách. Vì vậy, chúng tôi cho rằng NHNN sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,50%.
Thay vì tiếp tục hạ lãi suất với các hạn chế trong tính toán mức chặn dưới, Chính phủ đã chuyển trọng tâm sang các biện pháp phi lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế.
Một lĩnh vực trọng tâm là tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng vốn khá mờ nhạt vào đầu năm nay, với tổng tăng trưởng tín dụng đạt 0,26% tính đến ngày 25 tháng 3, theo GSO, tụt lại so với tốc độ 1,99% cùng kỳ năm trước. Vào năm 2023, tín dụng ngân hàng đã tăng 13,5% so với cùng kỳ, thấp hơn một chút so với mục tiêu 14-15% đặt ra cho năm, do cơ quan quản lý yêu cầu các ngân hàng đơn giản hóa thủ tục cho vay và cải thiện khả năng tiếp cận các khoản vay ngân hàng của doanh nghiệp. Đến năm 2024, NHNN đặt mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lên khoảng 15% với khả năng điều chỉnh linh hoạt dựa trên diễn biến kinh tế trong năm.
Nhu cầu tín dụng thấp là do nhiều nguyên nhân và có thể phải cần một thời gian để trở lại trạng thái bình thường. Một yếu tố là do số lượng doanh nghiệp thoái vốn trong năm 2023. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong nửa đầu năm 2023 (dữ liệu mới nhất có được), số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh lên tới 60.200, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, có thêm 31.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và 8.800 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng lần lượt 28,9% và 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trung bình mỗi tháng trong nửa đầu năm 2023, có 16.700 doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Đồng thời, sự suy thoái của thị trường bất động sản đã khiến số doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản sụt giảm 7,7%, trong khi số doanh nghiệp mới thành lập trong lĩnh vực này giảm 45% vào năm 2023.
Tuy nhiên, sẽ có thêm công cụ để NHNN triển khai quản lý thanh khoản của hệ thống. Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi gần đây, có hiệu lực từ ngày 01/7/2024, tạo khuôn khổ cho các khoản vay đặc biệt từ NHNN, bao gồm các khoản vay không lãi suất và các khoản vay không cần tài sản thế chấp, từ đó có thể hướng tới các mục tiêu chính sách cụ thể cho phép hỗ trợ các lĩnh vực quan trọng và để triển khai hoạt động thanh khoản khẩn cấp khi cần thiết, chẳng hạn như các trường hợp rút tiền hàng loạt tại ngân hàng. Điều này phản ánh cam kết và các công cụ mạnh mẽ của Chính phủ trong việc hỗ trợ các lĩnh vực quan trọng và ứng phó với các tình huống khẩn cấp.