Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tiền gửi
Theo Luật Bảo hiểm tiền gửi 2025, tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi và các hình thức tiền gửi khác.
Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi) với nhiều điểm mới quan trọng, sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2026.
Theo Luật, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi; ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng, để đảm bảo đủ thời gian chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thi hành Luật, thời điểm có hiệu lực của Luật Bảo hiểm Tiền gửi từ ngày 1/5/2026.
Về hình thức công khai việc tham gia bảo hiểm tiền gửi, Luật được thông qua đã bổ sung hình thức công khai việc tham gia bảo hiểm tiền gửi trên trang thông tin điện tử của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Đồng thời quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước theo hướng: Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.

Theo Luật Bảo hiểm tiền gửi 2025, tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 18 của Luật này.
Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ một trong các thời điểm sau:
- Phương án phá sản tổ chức tín dụng được phê duyệt hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt và tổ chức tín dụng đó có lỗ lũy kế lớn hơn 100% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản thông báo cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi về việc trả tiền bảo hiểm để đảm bảo an toàn hệ thống trật tự an toàn xã hội trong trường hợp tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt bị mất hoặc có quy cơ mất khả năng chi trả.
Trước đây, theo Điều 3 Quyết định 32/2021/QĐ-TTg, số tiền tối đa tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm là 125 triệu đồng.
Theo quy định mới, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định hạn mức chi trả tiền bảo hiểm trong từng thời kỳ. Khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 21 của Luật này, trong trường hợp đặc biệt, để đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, trật tự an toàn xã hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định hạn mức chi trả vượt hạn mức quy định tại khoản 1 Điều 22, tối đa bằng toàn bộ các khoản tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp thực hiện phương án phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt thực hiện theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng.
Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn mức chi trả tiền bảo hiểm quy định tại Điều 22 của Luật này.
Trường hợp người được bảo hiểm tiền gửi có khoản nợ tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thì số tiền gửi được bảo hiểm là số tiền còn lại sau khi trừ khoản nợ đó.
Trong thời hạn tối đa 45 ngày kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi.
Cũng theo Luật mới thông qua, tổ chức bảo hiểm tiền gửi được vay đặc biệt với lãi suất 0%, không có tài sản bảo đảm từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để trả tiền bảo hiểm.
Số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để trả tiền bảo hiểm được xác định khi tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã sử dụng hết số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ mà vẫn không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Việc bán giấy tờ có giá chưa đến hạn, rút các khoản tiền gửi chưa đến hạn phải bảo đảm nguyên tắc bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư…
